Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 41
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Huệ Trang và Đức Phong
Tập 81
“Kinh giả,
Phạn ngữ Tu Đa La. Trực dịch vi Tuyến,
ư dịch vi Khế Kinh. Khế giả, nhất giả
khế Lư. Lư giả, Thật Tế lư thể dă. Nhị giả
khế Cơ, Cơ giả, cơ nghi, chúng sinh căn cơ dă, kiêm chỉ thời
cơ, thời tiết nhân duyên dă. Cố khế
Cơ giả, thiết hợp chúng sanh thủy
b́nh dữ thời đại dă” (Kinh: Tiếng Phạn là Tu Đa La, dịch
sát nghĩa là Tuyến (sợi dây), dịch ư là Khế Kinh.
Khế: Một là Khế Lư, Lư là Thật Tế lư thể.
Hai là khế Cơ, Cơ là cơ nghi, tức căn cơ của
chúng sanh, đồng thời có nghĩa là thời cơ, thời
tiết nhân duyên. Do vậy, Khế Cơ là phù hợp tŕnh
độ của chúng sanh và thời đại). Chúng ta đọc tới chỗ này. Kinh là
những lư luận và phương pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật
thuở tại thế đă dùng để giáo hóa hết thảy
chúng sanh, nhưng thuở ấy Thích Ca Mâu Ni Phật chẳng
viết thành tài liệu giảng dạy. Vào thời cổ,
dường như đều giống như vậy.
Như tại Trung Quốc, Khổng Tử chỉ dùng ngôn
ngữ để dạy dỗ, không có sách giáo khoa, ngay cả
đại cương cũng chẳng có. Nh́n từ chỗ
này, suốt bốn mươi chín năm, đức Phật
giảng kinh, dạy học mỗi ngày chẳng gián đoạn,
sau khi Ngài viên tịch, các học tṛ dựa trên kư ức,
dùng văn tự ghi chép lời thầy đă dạy,
lưu truyền hậu thế; đấy là cội nguồn
của kinh điển Phật giáo. Kinh điển là những
lời “giảng nghĩa” trong lúc Phật giáo học thuở
ấy, nay chúng tôi dùng chữ “giảng nghĩa” cho mọi
người dễ hiểu! Phân lượng [kinh điển
nhà Phật] vô cùng to lớn, công tác kết tập gian truân
do tôn giả A Nan phức giảng (nhắc lại lời
giảng). Trong các đệ tử, cũng như trong số
các đồng học, ngài A Nan có trí nhớ tốt nhất.
Sở trường đặc biệt của Ngài là trí nhớ
mạnh mẽ, gần như nghe qua một lần sẽ vĩnh
viễn chẳng quên mất. Ngài có năng lực ấy, sức
lư giải rất mạnh. V́ thế, mọi người
cùng đề cử Ngài phức giảng, [tức là] nhắc
lại những ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong thuở
ấy. Có năm trăm vị đồng học, các đồng
học đều chứng quả A La Hán. Các vị A La Hán
và Bồ Tát ngồi ở dưới nghe, chứng minh lời
Ngài nói chẳng sai! Nếu có một vị nào bảo: “A
Chữ “Kinh” là chữ Hán, chúng ta dùng
chữ này để dịch chữ Ấn Độ. Tiếng
Ấn Độ [gọi Kinh] là Tu Đa La (Sūtra), Tu Đa La
vốn có nghĩa là Tuyến (sợi dây). V́ sao? Do trước
đây, vào thời kỳ đầu, chép kinh trên lá cây, tức
lá cây Bối-đa-la. Đương nhiên thuở ấy vẫn
chưa có giấy, nên dùng lá cây Bối-đa-la. Lá cây ấy
rất bền, có thể giữ rất nhiều năm chẳng
bị hư hoại. Lá cây được cắt thành từng
miếng, cắt thành miếng dài, hai bên đục lỗ.
Mỗi bên đục một lỗ, dùng dây xâu qua [để
buộc lại cho khỏi lạc mất]. [Các miếng lá]
đă xỏ dây được gọi là một quyển
sách, khi dịch [sát nghĩa chữ Sūtra] th́ dịch theo cách như vậy. Quư vị
đến Cố Cung sẽ có thể thấy h́nh dạng
nguyên thủy của kinh lá Bối. Nếu dịch nghĩa
th́ nên dùng ư nghĩa của chữ Kinh trong tiếng Hán để
dịch sẽ rất hay. Bởi lẽ, những giáo huấn
của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc lưu lại,
chúng ta đều gọi là Kinh. Do giáo huấn của đức
Phật cũng vô cùng quư báu, dùng chữ Kinh này để
phiên dịch là hay nhất.
Trước
chữ Kinh, thêm chữ Khế (契). Khế là Khế Lư. Lư là Thật
Tế lư thể, Lư là ǵ? Lư là chân tướng sự thật.
Nói theo cách bây giờ, Thật Tế lư thể là chân tướng
của vũ trụ và nhân sinh, mọi người dễ
hiểu điều này. Do vậy, kinh nhất định
giảng chân tướng sự thật, chẳng phải
là nói ṃ, chẳng phải là nói tùy tiện. Đây là chân
tướng sự thật thứ nhất.
Thứ hai là
phải Khế Cơ, tức là thích hợp tŕnh độ
của chúng sanh. Quư vị giảng quá sâu, họ nghe sẽ
không hiểu. Quư vị giảng quá cạn, họ sẽ chẳng
hứng thú! Nhất định phải thích hợp! Lại
c̣n phải thích hợp thời đại. V́ thế, kinh
điển sống động. Kinh Phật do đức
Phật nói. Quư vị thấy, mỗi triều đại
đều chú giải kinh điển rất nhiều. Chú
giải là ǵ? Chú giải nhằm khế cơ. Trong mỗi
triều đại, trong mỗi xă hội và dân tộc khác
nhau, họ cần những ǵ, dùng phương pháp ǵ để
giảng [cho thích hợp], đó là sống động. Lời
Phật giảng là nguyên lư, nguyên tắc, các vị tổ
sư đại đức giảng giải, tức là
đă giảng theo kiểu hiện đại hóa, người
hiện thời đều có thể thụ dụng, đó
là Khế Cơ.
[Kinh Phật] ắt
phải phù hợp hai điều kiện ấy. Nếu nói
khế cơ chẳng khế lư, đó là ma thuyết, chẳng
do Phật thuyết. Rất thích hợp với người
nghe, người ta rất thích nghe, nhưng chẳng phù hợp
Lư, chẳng phải là chân tướng sự thật, đấy
là tà thuyết. Nếu khế lư chẳng khế cơ, sẽ
là lời lẽ vô ích. Lư hay lắm, nhưng người ta
nghe chẳng hiểu, nghe xong chẳng vận dụng
được! V́ vậy, ắt phải phù hợp hai
điều kiện ấy th́ mới gọi là “kinh điển”. Đây là cách
thông thường để giới thiệu những ư nghĩa
được bao hàm trong chữ Kinh, trên thực tế,
c̣n có rất nhiều ư nghĩa mà các đồng học học
Phật chúng ta chớ nên không biết. Không biết, tức
là quư vị chưa phải là kẻ thông hiểu!
“Kim vị tỉnh văn, lược
khử Khế tự” (nay v́ nói gọn, lược bỏ
chữ Khế), người Trung Quốc chuộng
đơn giản, tuyệt đối chẳng thích rườm
rà, không giống người Ấn Độ. Người
Ấn Độ ưa rườm rà, càng nói chi tiết càng
hay! Người Trung Quốc yêu cầu như thế nào?
Nói tới trọng tâm rồi thôi, chẳng dây cà dây muống.
Người Trung Quốc là như vậy đó. V́ thế,
ngôn ngữ và văn tự Trung Quốc thời cổ
đ̣i hỏi phải đạt tiêu chuẩn gồm bốn
chữ là “giản, yếu,
tường, minh”, tức là đơn giản, tóm tắt,
nhưng vẫn phải cặn kẽ, vẫn phải rơ
ràng. Ăn nói như vậy mới là ăn nói giỏi,
văn chương như thế mới là văn
chương hay. Nhưng người Ấn Độ lại
khác, quả thật chẳng ngại phiền. Người
Hoa nói ǵ chẳng lặp đi lặp lại, văn
chương nhắc đi nhắc lại sẽ gọi
“trùng lặp”, chẳng phải là văn chương hay!
Nhưng kinh Phật chẳng vậy, kinh Phật là nhắc
đi nhắc lại. Lặp đi lặp lại cũng
có lợi, đối với kẻ trung hạ căn sẽ
rất hữu ích. “Giản, yếu,
tường, minh” thật sự chỉ hữu ích cho
người thượng thượng căn, kẻ trung hạ
căn nghe một lần chưa hiểu, nhưng không
được nghe lần nữa! Không giống như kinh
Phật, quư vị nghe một lần không hiểu, chẳng
sao! Phía sau c̣n nhắc lại nhiều lượt, quư vị
cứ thong thả mà học, nói chung rồi sẽ nghe hiểu!
Đấy là Phật từ bi, từ bi hơn Khổng lăo
phu tử rất nhiều! Khổng Tử và Mạnh Tử
chẳng từ bi như Phật, mà đ̣i hỏi rất
cao, cho nên [sách Nho mới chép]: “Cử
nhất ngung, bất dĩ tam ngung phản” (nêu lên một
góc, chẳng suy ra được ba góc kia), Khổng lăo phu tử
chẳng dạy quư vị, [chê bai]: “Nhà ngươi quá đần
độn!” Giống như căn nhà này, tôi bảo quư vị
góc này vuông vức đúng chín mươi độ, quư vị
phải nghĩ là ba góc kia cũng giống như thế. Nếu
quư vị chẳng nghĩ ra, phải dạy quư vị từng
thứ một th́ Khổng lăo phu tử chẳng dạy quư
vị, “gă này đần quá!”
Nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật rất từ bi, Ngài sẽ dạy
quư vị: “Góc này chín mươi độ, nh́n sang góc kia,
góc kia cũng là chín mươi độ”, Ngài chẳng nề
hà phiền phức. Từ chỗ này, ta thấy được
ḷng từ bi của đức Phật. V́ vậy, nói thật
thà, học Phật dễ hơn học Nho. V́ thế, Phật
giáo truyền sang Trung Quốc, Phật giáo là giáo dục,
giáo dục Phật giáo thịnh vượng hơn giáo dục
Nho gia. V́ sao? Thuận tiện, ḥa đồng, ba căn
thượng trung hạ, thượng thượng căn,
hạ hạ căn Phật đều dạy. Khổng lăo
phu tử dạy học th́ [học tṛ] phải là trung
thượng căn trở lên. Thấp hơn trung thượng
căn, phu tử sẽ chẳng muốn dạy, “rơ ràng là
ngươi quá đần độn!” Đây là một nhân
tố khiến cho nền giáo dục Phật giáo có thể
phổ biến, phổ cập toàn dân tại Trung Quốc,
tỏ rơ tấm ḷng yêu thương của đức Phật.
Chữ
Kinh này có bốn ư nghĩa, thông thường, hễ giảng
kinh, nhất định phải giới thiệu. Kinh có bốn
ư nghĩa là “quán, nhiếp,
thường, pháp”:
1) Quán (貫) là “quán
xuyên sở thuyết chi lư” (thông suốt, xuyên suốt Lư
đă được nói). Nói theo cách bây giờ là phù hợp
lư luận, thật sự là một môn học thuật cao
sâu, người hiện thời gọi là “la-tập” (Logic, luận lư học) giảng về
biện chứng pháp (Dialectics)[1],
nói theo danh từ Phật pháp là Nhân Minh (Hetuvidyā). V́ thế,
trong Phật pháp có khoa Nhân Minh Học. Nhân Minh Học nay
được gọi là La Tập, hoặc Biện Chứng
Pháp. “Quán” là có phương
pháp tuân theo Luận Lư Học, v́ thế, giảng hết sức
mạch lạc, có trật tự; người Trung Quốc
gọi điều đó là “hữu
điều bất vặn” (有條不紊: sắp xếp mạch lạc, hợp
phương pháp, chẳng rối loạn), quư vị nghe rất dễ hiểu, rất
minh bạch.
2) Ư nghĩa thứ
hai là Nhiếp (攝), “Nhiếp tắc nhiếp tŕ sở
hóa chi sanh (chúng sanh)” (Nhiếp là thâu giữ những chúng
sanh được giáo hóa). Đây là Nhiếp Tŕ. Tŕ là ǵn giữ,
[tức là] ǵn giữ những chúng sanh đă được
giáo hóa. Nếu dùng bốn chữ tiêu chuẩn này để
nhận định th́ văn chương Trung Quốc chỉ
đạt được điều thứ nhất là
Quán, thực hiện được chữ ấy! Tất
cả văn chương đạt được điều
ấy, c̣n ba chữ sau đó chưa chắc đă đạt
được! “Nhiếp”
là nhiếp thọ hết thảy chúng sanh, cũng là giống
như nó có sức hấp dẫn, sức thu hút. Sau khi tiếp
nhận, quư vị rất ưa thích, muốn bỏ mà chẳng
thể bỏ được. Điều này chẳng
đơn giản. V́ thế, kinh Phật khiến cho quư vị
đọc một lần, vẫn muốn đọc lần
thứ hai, lần thứ ba, càng đọc, càng ưa thích,
sức nhiếp thọ của kinh có thể chiếm lĩnh
tâm hồn người đọc; điển tịch của
cổ thánh tiên hiền Trung Quốc có sức mạnh này. Chẳng
hạn như Tứ Thư, Ngũ Kinh có năng lực này.
Quư vị thuở bé đọc Tứ Thư, đến lúc
bảy tám mươi tuổi, đọc Tứ Thư vẫn
hứng thú tràn trề, chúng có sức mạnh ấy! Quư vị
đọc tiểu thuyết, sau khi đọc một hai
lượt, chẳng muốn đọc lần thứ ba.
Tiểu thuyết dù hay cách mấy, thuở bé, tôi thích coi,
ưa chuộng nhất bốn bộ tiểu thuyết
Trung Quốc là Tam Quốc, Thủy Hử, Tây Du Kư, và Hồng
Lâu Mộng, [mỗi bộ] đại khái tôi đọc tới
mười lần, nhưng sau khi đọc mười lần,
suốt đời này, chẳng muốn đọc lại
nữa! Nói cách khác, sức nhiếp thọ của chúng chỉ
lớn chừng đó, sau khi xem mười lượt sẽ
chẳng muốn đọc nữa! Chẳng giống
như kinh Phật, quư vị đọc kinh Phật một
vạn biến cũng chẳng ngán, càng đọc càng
ưa thích, sức nhiếp thọ to lớn.
3) Chữ thứ
ba là Thường (常).
“Thường tắc cổ kim
bất dịch” (Thường là xưa nay chẳng thay
đổi). Người hiện thời gọi [điều
này] là Chân Lư. Những điều kinh Phật giảng chính
là chân lư, chân lư vĩnh hằng chẳng thay đổi. Những
điều đức Phật giảng từ ba ngàn năm
trước là chính xác, tới nay, ba ngàn năm sau vẫn
chính xác. Tại Ấn Độ, dạy người Ấn
Độ chính xác, truyền sang Trung Quốc, dạy người
Trung Quốc vẫn chính xác! Cũng có nghĩa là những lư
luận và phương pháp của đức Phật siêu việt
thời gian và không gian, nên gọi là Thường. Điều
này hết sức khó đạt được!
4) Điều
cuối cùng là Pháp (法),
“Pháp tắc cận viễn
đồng tuân” (pháp là xa gần cùng tuân thủ). Người
thời cổ và người hiện tại đều phải
tuân những phương pháp đă được dạy
trong kinh điển.
Có thể phù hợp
bốn điều kiện ấy mới gọi là Kinh.
Văn chương của phàm nhân sáng tác chẳng thể trọn
đủ bốn điều kiện này, nên chẳng thể
gọi là Kinh. Trọn đủ bốn điều kiện
này mới có thể gọi là Kinh. Như Tứ Thư của
Trung Quốc có thể gọi là Kinh, v́ quả thật Tứ
Thư có “quán, nhiếp, thường,
pháp”, phù hợp bốn điều kiện ấy. Nói tới
Ngũ Kinh th́ phần lớn là có [bốn điều kiện
ấy]. Trong thời đại hiện tại, có thể
dùng tinh thần, chứ không thể dùng phương pháp
[được nói trong Ngũ Kinh], v́ phương pháp phù hợp
thời đại đó, [chẳng phù hợp thời đại
này], chẳng giống như kinh Phật. Những điều
được giảng trong kinh Phật là sống động.
“Thượng thuật tứ tự,
khả tận Kinh tự chi nghĩa” (bốn chữ vừa
nói trên đây, có thể gồm trọn hết những ư
nghĩa của chữ Kinh). Thông thường để giải
thích chữ Kinh, luôn dùng bốn chữ “quán, nhiếp, thường, pháp” này!
“Hựu Phật sở thuyết
giả, thông danh vi Kinh” (lại nữa, những điều
do đức Phật nói đều gọi chung là Kinh), những
ǵ do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng, “cố đề trung Kinh chi nhất tự thị
Thông Danh” (nên một chữ Kinh trong tựa đề là
tên chung). Phàm những ǵ do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng
đều gọi là Kinh; v́ thế, Kinh là Thông Danh (tên chung).
Tất cả hết thảy những giáo huấn của
thánh hiền cũng gọi là Kinh, nhưng Kinh [của thánh
hiền] chưa chắc đă có hội đủ ư nghĩa
gồm trong bốn chữ “quán,
nhiếp, thường, pháp”. Tuy đều là Kinh,
nhưng có rất nhiều thứ chẳng phù hợp định
nghĩa “quán, nhiếp, thường,
pháp” này. Đấy chính là chỗ vượt trội của
kinh Phật so với các thứ kinh điển khác! Những
câu này nhằm giới thiệu Kinh danh xưng chung.
Tiếp
đó, sách Chú Giải viết: “Phật
Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang
Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác”, mười bốn
chữ ấy, “thị bổn
kinh độc cụ chi biệt danh” (là tên riêng chỉ
ḿnh kinh này có). Đều do đức Phật nói, nhưng
không giống những kinh khác [th́ danh xưng ấy]
được gọi là Biệt Danh. Như vậy đề
mục kinh này gồm mười lăm chữ bao gồm
Thông Đề (Thông Danh) và Biệt Đề (Biệt Danh).
Mười bốn chữ đầu là Biệt Đề,
một chữ Kinh sau đó là Thông Đề.
“Chư kinh lập danh, bất ly
nhân, pháp, dụ. Hoặc đơn, hoặc phức, khả
đắc thất loại: Đơn nhất giả tam, cụ
nhị giả tam, cụ túc giả nhất, cộng thành thất
loại” (Đặt tên các kinh, chẳng ngoài nhân, pháp, dụ,
có thể là đơn hoặc phức, chia thành bảy loại:
Đơn danh, tức chỉ một thứ, gồm ba loại,
gồm hai thứ có ba loại, có đủ ba thứ chỉ
có một loại, cộng thành bảy loại). Đây là
nói đến việc đặt tên kinh Phật có quy củ,
chẳng phải là nói tùy tiện. V́ thế, người
thông hiểu vừa nh́n vào [đề mục kinh, đă biết]
kinh này là thật hay là ngụy tạo. Những kinh ngụy
tạo có đề mục chẳng phù hợp nguyên tắc
này. Chẳng phù hợp nguyên tắc này, sẽ chẳng phải
là kinh Phật chân chánh. Kinh Phật chân chánh nhất định
phải phù hợp nguyên tắc này, tức bảy tiêu chuẩn.
Nói tóm lại, bảy tiêu chuẩn chẳng ngoài “nhân, pháp, tỷ dụ”, trong
đề mục nhất định lấy những
điều ấy làm nguyên tắc.
“Đơn nhân”, là chỉ dùng người (nhân) làm đề mục,
“A Di Đà Kinh, A Di Đà thị
nhân” (kinh A Di Đà, A Di Đà là người), A Di Đà
là Biệt Đề, Kinh là Thông Đề, trong tựa
đề kinh ấy chỉ có Nhân, không có Pháp, không có tỷ
dụ.
“Đơn pháp, Đại Bát Nhă Kinh, Bát Nhă
thị Pháp”
(Đơn pháp là như kinh Đại Bát Nhă, Bát Nhă là Pháp),
không có Nhân, không có Dụ, tức là không có tỷ dụ.
“Đơn dụ, Phạm Vơng
kinh” (chỉ có Dụ là như kinh Phạm Vơng), Phạm Vơng (Brahmajala) là cái
lưới của Đại Phạm Thiên. Dùng cái lưới
của Đại Phạm Thiên để sánh ví. V́ thế,
Phạm Vơng là tỷ dụ, không có Nhân, mà cũng chẳng
có Pháp.
Ba loại ấy
được gọi là “đơn
tam đề” (ba loại đề mục kinh chỉ
dùng một thứ để đặt tên).
“Phức nhị đề” cũng có ba loại; trong ấy
có:
- Nhân Pháp, tức
là trong đề mục có người và pháp, như Văn
Thù Vấn Bát Nhă Kinh. Văn Thù là Nhân, Bát Nhă là Pháp, trong ấy
chẳng có tỷ dụ.
- Dùng Pháp và Dụ
để đặt tên như Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Diệu
Pháp là Pháp, Liên Hoa là tỷ dụ, trong ấy chẳng có
Nhân.
- Dùng Nhân và Dụ
để đặt tên kinh như Bồ Tát Anh Lạc Kinh,
Bồ Tát là Nhân, Anh Lạc là tỷ dụ, trong ấy chẳng
có Pháp.
Ba thứ này gọi
là “phức tam chủng lập
đề”.
Nhân, pháp, dụ
thảy đều có đủ, cả ba thứ ấy
đều có, đầy đủ nhân, pháp, dụ là Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, đề kinh có
đủ cả ba thứ ấy. Phật là Nhân, Đại
Phương Quảng là Pháp, Hoa Nghiêm là tỷ dụ (Dụ).
Do vậy, Nhân, Pháp, Dụ đều có.
Đây là bảy
nguyên tắc để đặt tựa đề cho kinh
Phật. Nếu chẳng tương ứng [với bảy
nguyên tắc ấy], nhất định chẳng phải
là kinh Phật. Nếu bảo nó là kinh Phật th́ đó là giả,
chẳng thật! Kinh Phật thật sự sẽ chẳng
trái phạm quy củ này.
“Kim bổn kinh đề diệc
cụ túc Nhân, Pháp, Dụ” (nay tựa đề kinh này cũng
trọn đủ Nhân, Pháp, Dụ). Hạ lăo cư sĩ hội
tập kinh này, đặt tựa đề trọn đủ
Nhân, Pháp, Dụ. “Đề
trung Phật tự biểu thử độ quả nhân”
(chữ Phật trong tựa đề biểu thị
người đă chứng quả trong cơi này): “Phật” là Thích Ca Mâu Ni Phật,
tức là vị đă chứng quả trong cơi này. “Quả nhân” là người
đă chứng Phật quả, là Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng
ta học Phật nhất định phải biết, bất
luận ở chỗ nào cũng phải nói rơ ràng với
người khác, nếu người ta hỏi đến
Phật th́ Phật là giáo dục. Chúng ta tiếp nhận sự
giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, nói rơ Phật chẳng
phải là tôn giáo, chẳng liên quan ǵ đến tôn giáo! Kể
từ khi tôi được tiên sinh Phương Đông Mỹ
giới thiệu tiếp xúc Phật giáo, tôi học theo sự
giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng theo tôn giáo.
Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch điều này. Hiệp
hội của chúng ta là hiệp hội giáo dục của
đức Phật, chớ nên mơ hồ, khiến cho
người khác nẩy sanh hiểu lầm!
Phật, Bồ
Tát, A La Hán là những danh xưng học vị trong nền
giáo dục của đức Phật, mà cũng là những
danh xưng chung. Phật là học vị tối cao, Bồ
Tát là học vị thứ hai, A La Hán là học vị thứ
ba, có cùng một ư nghĩa với [các học vị] tiến
sĩ, thạc sĩ, học sĩ như trong nhà trường
hiện thời. Thích Ca Mâu Ni Phật tu học đă đạt
tới tầng lớp cao nhất, nên gọi Ngài là Phật
Đà. C̣n những vị như Văn Thù, Phổ Hiền
được nhắc đến trong kinh sách, tuy chưa
đạt tới tối cao, nhưng tu cũng rất khá,
thuộc vào học vị Bồ Tát. Lại c̣n có Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên là A La Hán, thuộc học vị
thứ ba. [Gọi Phật, Bồ Tát, A La Hán là nói tới]
danh xưng học vị, các Ngài chẳng phải là thần,
mà cũng chẳng phải là tiên, các Ngài là người. Phải
hiểu rơ ràng, minh bạch th́ chúng ta mới thật sự
học được thứ này thứ nọ trong Phật
pháp có lợi ích cho chúng ta.
Lợi
ích phổ biến nhất là thân tâm khỏe mạnh, quư vị
có muốn hay không? Quư vị học Phật, khẳng định
phải đạt được điều đầu
tiên này! Nhà Phật nói “trường
sanh bất lăo” là thật, chẳng phải là mê tín,
đáng tiếc là chúng ta công phu chẳng tới mức, phải
nâng công phu lên cao hơn, nâng cao tới cảnh giới nào?
Nâng cao tới A La Hán là được rồi, A La Hán
trường sanh bất lăo. Nay chúng tôi chỉ mới dính
dáng một chút bên ngoài, hưởng nhờ một tí bên bề
ngoài, hết thảy mọi người quư vị thấy
tôi tuổi tác không ngừng tăng lên, nhưng cũng chẳng
suy lăo, thật đấy, chẳng giả! Năm 1999, tôi
giảng kinh tại Tân Gia Ba, có một vị cư sĩ là
nữ tu Thiên Chúa Giáo tại Tân Gia Ba, đến gặp tôi,
muốn quy y Phật môn. Bà ta hỏi: “Tôi có đủ điều
kiện để quy y hay không?” Tôi nói: “Chẳng có vấn
đề ǵ, bà hội đủ điều kiện”. Tôi
quy y cho bà ta, năm ấy, bà ta đă một trăm lẻ
một tuổi, được gọi là “người thanh niên một trăm lẻ một tuổi”.
Bà làm công tác thiện nguyện chăm sóc người già.
Người già đều là bảy, tám chục tuổi! Bà
ta phục vụ, chăm sóc họ mỗi ngày, chăm nom
hai mươi mấy người già, rất khó có! Hiện
thời, thân thể bà ta vẫn vô cùng khỏe mạnh. Mấy
hôm trước, tôi nghe nói bà ta muốn sang một viện
dưỡng lăo ở Tân Cương phục vụ nửa
năm. Năm 1999, bà ta đă một trăm lẻ một
tuổi, năm nay là năm 2010, bà ta phải là một
trăm mười một tuổi, không phải vậy,
năm 1999, bà ta đă một trăm lẻ một tuổi,
năm nay là một trăm mười hai tuổi. Một
trăm mười hai tuổi vẫn làm công tác thiện
nguyện, vẫn chăm sóc người già sáu, bảy chục
tuổi, bà ta chẳng già, vẫn nói ḿnh là thanh niên! Đầu
tiên là thân tâm khỏe mạnh, quư vị chẳng có phiền
năo, mà có trí huệ, phiền năo nhẹ đi, trí huệ
tăng trưởng. Gia đ́nh quư vị ḥa thuận, sự
nghiệp thuận lợi, nơi quư vị sống ḥa thuận,
chẳng có ǵ không tốt đẹp! Đấy là lợi
ích hiện tiền của Phật pháp. Một người
tu hành như vậy ở nơi ấy, các nhà Lượng
Tử Học cho biết: Người ấy ở khu vực
nào, trong vùng phụ cận, tỷ lệ phạm tội chắc
chắn rất ít, do nguyên nhân nào? Từ trường tốt
đẹp! Một đạo tràng thành lập ở
đây, người thật sự học tập rất
nhiều, tỷ lệ phạm tội trong khu vực này sẽ
giảm bớt với một mức độ to lớn,
đó là sự thật. V́ vậy, chúng ta nói tới Phật,
Pháp, Tăng, nói chung phải hiểu ư nghĩa thật sự.
Nếu không, người ta sẽ nói chúng ta mê tín, sai lầm
rất lớn. Do vậy, chữ Phật ở đây là “thử độ quả nhân”,
trong thế gian này, Ngài là một người tu học
đă đạt được học vị tối cao.
“Vô Lượng Thọ thị bỉ
phương quả nhân” (Vô Lượng Thọ là người
chứng quả trong phương kia), Vô Lượng Thọ
ở Tây Phương Cực Lạc thế giới, cũng
là A Di Đà Phật đạt học vị tối cao. A
Di Đà dịch là Vô Lượng Thọ, Phật là danh
xưng học vị. Ngài và Thích Ca Mâu Ni Phật có học vị
tương đồng, b́nh đẳng. “Cố đề trung cụ lưỡng độ
quả nhân” (do vậy, trong tựa đề kinh có hai vị
chứng quả trong hai cơi), trong một tựa đề
kinh có hai người, chẳng phải là một người,
mà là hai người, đều đạt được
học vị tối cao.
Bảy
chữ “trang nghiêm thanh tịnh
b́nh đẳng giác” là pháp, “Đại
Thừa nhị tự” (hai chữ Đại Thừa) là
tỷ dụ. “Thừa giả”
(Thừa là), âm cổ là Thặng (乘), nay chúng ta thường đọc là Thừa,
âm cổ đọc là Thặng, có nghĩa là xe, thuở ấy
là xe ngựa! “Thử kinh khả
vận tải vô lượng chúng sanh hàm đạt bảo
sở” (kinh này có thể chuyên chở vô lượng chúng
sanh cùng đến được chỗ có của báu), nói
theo cách bây giờ, “bảo sở” là “bảo địa”
(nơi đất báu). Bộ kinh này có thể chở chúng
ta sang Tây Phương Cực Lạc thế giới bảo
địa. Như trong kinh Pháp Hoa đă nói: “Đại bạch ngưu xa”. Đại bạch
ngưu xa là xe ngựa. Thời cổ, xe ngựa lớn nhất,
có thể ngồi được rất nhiều người.
Tôi nhớ lúc bé, đi học tại Nam Kinh, lúc ấy
đang học Sơ Trung (trung học đệ nhất cấp,
cấp hai), phương tiện giao thông ở Nam Kinh rất
ít, xe ngựa rất nhiều. Xe ngựa rất rẻ, h́nh
như là một hai xu, rất rẻ! Một cỗ xe ngựa,
tôi nhớ thường ngồi được mười
bốn đứa học tṛ, mười bốn đứa
nhỏ ngồi chung một chiếc xe ngựa đi học.
Do vậy, dùng Đại Thừa làm tỷ dụ, Đại
Thừa là cỗ xe ngựa lớn.
“Chư kinh giai cụ Giáo, Hành, Lư”
(các kinh đều có đủ Giáo, Hành, Lư), hết thảy
các kinh đều có bốn ư nghĩa ấy, ở đây,
[lời chú giải] đă tỉnh lược một chữ,
lẽ ra phải là Giáo - Hành - Lư - Quả. Một bộ kinh
nhất định có bốn ư nghĩa ấy; ở
đây, Quả bị lược đi, Quả là chứng
quả, tức đạt được học vị. “Phật Thuyết Đại Thừa
thị Giáo” (Phật Thuyết Đại Thừa là
Giáo), đấy là giáo học. “Trang
Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác thị Hành” (Trang
Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác là Hành). Như vậy
th́ đây là Giáo kinh mà cũng là Hành kinh, quư vị hành sẽ
đạt được, chẳng hành sẽ chẳng
đạt được! “Vô
Lượng Thọ thị Lư” (Vô Lượng Thọ là
Lư), Vô Lượng Thọ [là Lư] mà cũng là Quả. Các vị
tổ sư đại đức xưa nay giải thích tựa
đề kinh chẳng hoàn toàn giống nhau. Có những vị
có cách giảng riêng, nhưng đều giảng hợp lư,
đúng lư, đúng pháp, nên [thuyết của các Ngài] đều
được công nhận. Do vậy, chúng ta đọc nhiều
về giáo pháp Đại Thừa, đối với những
thứ do tổ sư đại đức đă giảng
từ xưa, quư vị có thể dung hội, ḥa hợp,
tham khảo nhiều bản [chú giải khác nhau]. Ở Trung
Quốc, vào thời cổ, kinh Vô Lượng Thọ có hai
bản chú giải chú giải để tham khảo. Những
tác phẩm chú giải của Nhật Bản càng nhiều,
có hơn hai mươi thứ như trong phần trước
chúng ta đă thấy. Lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ giới
thiệu, phần nhiều là nh́n vào cách người khác giảng
giải tựa đề kinh và Huyền Nghĩa. Bậc tu
hành lăo luyện, thật sự thâm nhập Kinh Tạng
thường chẳng nh́n xem quư vị giảng giải nội
dung kinh như thế nào, chẳng xem phần ấy, mà xem
phần Huyền Nghĩa. Huyền Nghĩa là ǵ? Là báo cáo tâm
đắc tu học của quư vị, trong ấy có cảnh
giới của chính quư vị, nên bậc tu hành lăo luyện
thường thích xem phần ấy. Kẻ sơ học
thích xem cách giảng từng câu kinh một, xem lời chú giải.
“Vô Lượng
Thọ biểu tam tế nhất như, Niết Bàn thường
trụ chi Pháp Thân bổn thể” (Vô Lượng Thọ biểu thị ba đời
giống hệt như nhau, Pháp Thân bổn thể thường
trụ Niết Bàn). “Tam tế”
(三際) là quá khứ, hiện tại, vị
lai, cũng có thể nói là Lư Thể được chứng
bởi tam thế chư Phật. Lư Thể ấy thường
được gọi là “chư
pháp Thật Tướng”, tức là chân tướng của
hết thảy các pháp, chẳng hề mê tín! Khoa học và triết
học hiện tại đang nghiên cứu những ǵ? Chân
tướng của vũ trụ và vạn vật. Trải
qua nhiều niên đại như thế, những triết
học gia và khoa học gia xưa nay trong ngoài nước
đă nghiên cứu, có thể nói là họ đă đạt
thành tựu khá khả quan; nhưng c̣n có khá nhiều nghi vấn
chưa thể giải đáp! Nói tới khởi nguyên của
vũ trụ, các khoa học gia hiện đại cho rằng
có một vụ Bùng Nổ Lớn (Big Bang), nhưng thuyết
Bùng Nổ Lớn ấy chẳng thể nói trọn vẹn,
cái ǵ đă bùng nổ? Do nguyên nhân nào mà bùng nổ? Chẳng thể giảng
rơ ràng những điều ấy. Nói Big Bang là chỉ nh́n
vào một hiện tượng, quan sát thấy bằng viễn
vọng kính: Trong vũ trụ, thấy tất cả những
tinh cầu [bùng nổ] ấy dường như đều
ở quá xa chúng ta. Đây là một hiện tượng Bùng
Nổ, [do nh́n] từ chỗ này [mà lập ra thuyết ấy].
Thuyết ấy chẳng thể nói trọn vẹn, chỉ
do tạm thời quan sát hiện tượng mà có được
kết luận như vậy, vẫn phải tiếp tục
nghiên cứu. Hiện thời, Lượng Tử Lực Học
(Quantum Mechanics) lại phát hiện, phát hiện ǵ vậy?
Phát hiện hiện tượng vật chất sanh khởi
là “vô trung sanh hữu” (từ
trong Không mà sanh ra Có), tốc độ vô cùng nhanh chóng, sau
khi sanh ra, bèn tiêu diệt trong khoảng sát-na. Cách nói này hết
sức giống với những điều được
giảng trong kinh Phật; bởi lẽ, Phật pháp giảng
nguyên khởi của vũ trụ là A Lại Da nguyên khởi,
A Lại Da là ǵ vậy? Hiện thời, A Lại Da quả
thật đă bị các nhà Lượng Tử Lực Học
phát hiện; nhưng c̣n có một vấn đề: A Lại
Da do đâu mà có? Họ chẳng có cách nào [khám phá], nhưng
kinh Phật có thể nói rơ: A Lại Da do đâu mà có? V́ sao
có A Lại Da?
Do
vậy, thuở ấy, tiên sinh Phương Đông Mỹ
giới thiệu Phật pháp với tôi, [đă bảo] Thích
Ca Mâu Ni Phật là một bậc đại triết học
gia. Tôi học Triết với cụ, chúng tôi muốn t́m triết
học gia, chẳng t́m tôn giáo, không t́m đến mê tín! Cụ
nói: “Thích Ca Mâu Ni là đại
triết học gia, kinh Phật là đỉnh cao nhất
trong triết học cả thế giới. Học Phật
là hưởng thụ cao nhất trong đời người”.
Tôi được cụ uốn nắn quan niệm sai lầm
trước kia như vậy, tôi cứ tưởng Phật
giáo là tôn giáo, mê tín, cụ đă chuyển đổi quan niệm
sai lầm ấy. Tôi học Phật từ lúc bắt đầu
học với thầy Phương cho tới nay là năm
mươi chín năm, sang năm là một giáp. Năm
mươi chín năm học tập, chứng tỏ lời
thầy nói là thật, chẳng giả. V́ thế, tôi nhớ
măi không quên ân đức của thầy. Nếu không
được thầy chỉ dẫn, làm sao chúng tôi biết
trên thế giới có thứ tốt đẹp như vậy,
ở ngay trước mặt mà bỏ lỡ, quư vị nói
có đáng tiếc lắm không? Bao nhiêu người bỏ lỡ!
Hiện thời,
chúng tôi đă nghiên cứu, học tập Phật giáo
năm mươi chín năm, phát hiện nó không là đỉnh
cao nhất trong triết học, mà c̣n là khoa học đạt
tới đỉnh cao nhất. Những vấn đề
mà khoa học và triết học hiện tại chẳng thể
giải quyết, đều có toàn bộ [lời giải
đáp] trong kinh Đại Thừa. Khoa học gia phát hiện
vấn đề ấy, chúng ta mở kinh Phật ra xem thấy
ngày càng gần gũi, rốt cuộc họ có thể đạt
tới cảnh giới của Phật hay chăng? Chẳng
thể nào! V́ sao chẳng thể? Trong kinh Đại Thừa,
đức Phật đă giảng: Ư thức là tâm phân biệt,
năng lực của tâm ư thức rất lớn, chúng ta
hăy nghĩ thức thứ sáu tức ư thức, bên ngoài có thể
duyên khắp pháp giới hư không giới. Khoa học hiện
thời gọi điều này là “hoằng
quan thế giới” (đại vũ trụ, vũ trụ
vĩ mô, macrocosm). Quư vị có thể phan duyên toàn bộ vũ
trụ, bên trong quư vị có thể duyên tới A Lại Da.
Hiện thời, Lượng Tử Lực Học đă thật
sự duyên đến A Lại Da. Họ nói tới ba tế
tướng của A Lại Da, đương nhiên chẳng
rơ ràng, minh bạch như trong kinh Phật đă giảng! Hiện
nay, họ phát hiện trong vũ trụ, thứ ǵ cũng
đều không có, chỉ có ba thứ, giống như trong
Pháp Tướng Duy Thức đă giảng. Các nhà Pháp Tướng
Duy Thức chẳng thừa nhận trong vũ trụ có thứ
ǵ, họ chỉ thừa nhận duy thức, [nghĩa là] chỉ
có thức, chỉ có một ḿnh thức! Thức là ba tế
tướng, tức nghiệp tướng, chuyển tướng,
cảnh giới tướng, họ dùng các danh từ ấy.
Hiện thời, các nhà Lượng Tử Lực Học
nói ǵ? Vật chất, năng lượng, thông tin là ba tế
tướng của A Lại Da. Năng lượng là nghiệp
tướng của A Lại Da, diễn đạt bằng
những danh từ khác nhau, nhưng là cùng một chuyện!
Thông tin là chuyển tướng của A Lại Da, cảnh
giới tướng được các nhà khoa học hiện
tại gọi là “vật chất”. Hoàn toàn tương đồng
với Pháp Tướng, chẳng đơn giản! Vũ
trụ sâu xa kín nhiệm!
Đức
Phật dạy đến khi nào mới có thể thấy sự
sâu xa kín nhiệm ấy, là ai? Trong kinh Phật nói Bát Địa
Bồ Tát có công phu định lực ấy. Bởi lẽ,
các khoa học gia dùng dụng cụ, máy móc để quan
sát, phát hiện, Phật pháp không như thế, Phật pháp
dùng công phu định lực! Ngài nhập định rất
sâu, từ trong Định thấy được. Trong
Định, chẳng có giới hạn thời gian và không
gian, chẳng có chiều không gian. Ngài trực tiếp thấy,
cho nên thấy rơ ràng hơn các khoa học gia. Các khoa học
gia phải nhờ vào dụng cụ, máy móc, họ chưa
đoạn ư niệm. V́ vậy, đức Phật nói phải
đoạn sạch ư niệm, quư vị chớ nên dùng tâm ư
thức! Dùng tâm ư thức sẽ chẳng thể thấy
chân tướng, v́ sao? Cái mà quư vị trông thấy chính là
huyễn tướng, tâm ư thức cũng là huyễn tướng!
Huyễn tướng có thể duyên huyễn tướng,
chẳng thể duyên chân tướng. V́ thế nói: Các khoa học
gia chắc chắn chẳng thể kiến tánh. Nếu khoa
học gia, triết học gia buông phân biệt, chấp
trước, khởi tâm động niệm xuống, họ
sẽ thành Phật, mới có thể thật sự thấy
chân tướng. Do vậy, chúng ta có thể nói: Các nhà Lượng
Tử Lực Học đă mon men bên lề Phật pháp. Nếu
họ thật sự có thể tiến thêm một bước
đột phá nữa, buông khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước xuống, họ sẽ chứng
đắc, không cần dùng dụng cụ khoa học, chẳng
cần phiền phức như vậy. Do các lẽ đó,
nói Thật Tế lư thể, nói “tam
tế nhất như”. “Niết Bàn thường trụ”,
Niết Bàn (Nirvāna) là tiếng Phạn, dịch nghĩa là bất
sanh bất diệt. Trong Phật pháp, “Pháp Thân bổn thể” được gọi là
Chân Như, mà cũng là Chân Tâm, hoặc Bổn Tánh, rất
nhiều danh từ, tới mấy chục loại! V́ sao
đối với một chuyện mà đức Phật
nói ra lắm danh từ như thế? Đấy là giáo học
thiện xảo, dạy quư vị chớ nên chấp trước
tướng danh tự! Nói cách nào cũng được, chỉ
cần nói đúng chuyện này, phá chấp trước, phá
phân biệt đấy mà! Nói một danh từ, quư vị liền
chấp trước, phân biệt. Nói mấy chục danh từ
đều nhằm nói về chuyện này, danh tướng
là giả, đừng chấp trước, quư vị mới
hiểu nghĩa chân thật do đức Phật đă giảng.
Pháp
Thân bổn thể “diệc tức
chúng sanh bổn cụ chi Phật Tánh” (cũng chính là Phật
Tánh mà chúng sanh vốn sẵn có), Pháp Thân bổn thể là Phật
Tánh của chính ḿnh. “Thị tâm
thị Phật chi bổn tâm. Cố phán thuộc ư Lư,
cái kỳ vi Thật Tế lư thể dă” (là bổn tâm “tâm
này là Phật”, nên phán định [Vô Lượng Thọ]
thuộc về Lư, v́ nó chính là Thật Tế lư thể). Nói
tới cuối cùng, vũ trụ và chính ḿnh là một, chẳng
hai. Đấy là ǵ? Nêu rơ quan hệ luân lư trong Phật pháp.
Phật pháp giảng luân lư thật tuyệt vời, rốt
ráo viên măn. Tổ tiên Trung Quốc nói tới luân lư, lấy
thí dụ như trong hiện thời là một gia tộc, từ
gia tộc mở rộng đến người ngoài: “Phàm thị nhân, giai tu ái” (phàm
là người, đều phải yêu thương). Quan hệ
luân lư như trong Phật pháp giảng, không chỉ là hết
thảy mọi người và chính ḿnh là nhất thể;
Lăo Tử nói “thiên địa dữ
ngă đồng căn, vạn vật dữ ngă nhất thể”
(trời đất và ta cùng một căn bản, vạn vật
và ta cùng một thể), hai câu ấy hết sức gần
với Đại Thừa Phật pháp, luân lư Phật pháp giảng
điều ǵ? Hoa, cỏ, cây cối và chính ḿnh là nhất thể;
núi, sông, đại địa và chính ḿnh là nhất thể;
hư không pháp giới và chính ḿnh là nhất thể. Giảng
luân lư viên măn, giảng đến rốt ráo. Hiểu rơ ràng
mối quan hệ, phẩm đức thứ nhất trong tự
tánh là ǵ? Là Ái. Phật không gọi là Ái, v́ sợ nói Ái,
người ta sẽ nẩy sanh hiểu lầm, v́ trong Ái
có t́nh, Ái đó sẽ chẳng thật, bị biến đổi;
nhà Phật nói là từ bi. Từ bi là Ái, trong từ bi có trí
huệ, chẳng có t́nh. Khi giác ngộ gọi là trí huệ,
khi mê, trí huệ bèn biến thành t́nh, nên gọi là “t́nh thức”.
V́ lẽ đó, trí huệ và t́nh thức là một chuyện.
Một thể mà có hai phương diện! Khi ngộ th́ là
trí huệ, lúc mê gọi là “t́nh chấp”. Đức Phật
dạy chúng ta hăy giác ngộ, chớ nên mê hoặc. Chúng sanh
trong mười pháp giới đều mê, chẳng giác,
đến khi nào mới thật sự giác ngộ? Từ bậc
Sơ Trụ trong Viên Giáo như kinh Hoa Nghiêm [đă nói] trở
lên là giác ngộ. Trong tâm các Ngài, hoàn toàn là trí huệ, chẳng
c̣n có t́nh chấp. Trong mười pháp giới, Phật pháp
giới có chín phần giác ngộ, vẫn c̣n một phần
t́nh chưa đoạn. Đạt đến địa vị
Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, t́nh chẳng c̣n, trí huệ
mười phần viên măn hiện tiền, mới hữu
dụng, mới chẳng lui sụt, mới chẳng đọa
lạc. V́ thế, mục tiêu chung cực của giáo học
Phật pháp là dạy chúng ta trở về tự tánh, trí huệ
viên măn trong tự tánh chính là Thật Tế lư thể.
“Phật Thuyết Đại Thừa
thị Giáo, tức y thử Vô Lượng Thọ chi Lư thể,
trực chỉ Đại Thừa vi dụ, vị tuyên thuyết
chúng sanh bổn cụ chi đại kinh, phán chi vi Giáo, nghĩa
thậm phân minh” (“Phật
Thuyết Đại Thừa” là Giáo, nghĩa là nương theo
lư thể của “Vô Lượng Thọ” để trực
chỉ Đại Thừa. [Vô Lượng Thọ] là tỷ dụ,
v́ đức Phật tuyên thuyết Đại kinh để
nói về cái chúng sanh vốn sẵn có đủ. Ư nghĩa
phán định chữ “Phật Thuyết Đại Thừa”
là Giáo hết sức rơ ràng). Ư nghĩa này rất
rơ ràng, rất minh bạch. Phần đầu [bản chú giải]
kinh này, Hoàng lăo cư sĩ đă nói một câu rất hay, “chúng sanh bổn cụ chi đại
kinh” (đại kinh nói về cái chúng sanh vốn sẵn
có đủ, hoặc có thể hiểu là: Đại kinh mà
chúng sanh vốn sẵn có). Nay chúng ta học kinh Vô Lượng
Thọ là học kinh Vô Lượng Thọ của ai? Chẳng
phải là A Di Đà Phật, chẳng phải là Thích Ca Mâu
Ni Phật, mà là chính ḿnh. V́ sao? Trong tâm của chính ḿnh, trong
chân tâm, trong tâm thanh tịnh đă trọn đủ Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh
Đẳng Giác. Người Trung Quốc cũng nói tới
bổn tánh. Câu đầu tiên trong Tam Tự Kinh là “nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(thoạt đầu, con người tánh vốn lành). Đối
với Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác, Tam Tự Kinh dùng một chữ
là Thiện, bổn tánh vốn lành! Thiện nghĩa là ǵ?
Chính là mười bốn chữ trong tựa đề
kinh. Chính ḿnh, chẳng phải bên ngoài, học điều
này để làm ǵ? Học để chúng ta trở về bổn
thiện, quư vị liền thành Phật. Hiện thời
chúng ta như thế nào? Hiện thời, chúng ta “tánh tương cận, tập
tương viễn” (tánh gần giống như nhau, do
huân tập mà khác xa), tánh của chúng ta là một, đều
là thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, đều là Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh
Đẳng Giác, đều là như vậy; nhưng hiện
thời mê muội, lệch lạc, tà vạy, lệch sang tập
tánh. Tập tánh là ǵ? Ích kỷ, tự lợi, thị phi,
nhân ngă, tiếng tăm, lợi dưỡng, tham, sân, si, mạn,
làm những chuyện ấy, lệch lạc rồi! Tiếp
nhận sự giáo dục của đức Phật là ǵ? Từ
lệch lạc, tà vạy quay trở lại, trở về
Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác, trở về bổn thiện. Từ tập
tánh trở về bổn thiện là đúng. Điều
đó gọi là sự giáo dục của đức Phật.
Sự giáo dục của đức Phật là ǵ? Quư vị
vốn là Phật, nay quư vị đang mê muội, lệch lạc,
nên là chúng sanh. Chúng sanh chẳng làm ǵ, cứ luân hồi trong
lục đạo, bị khốn khổ ngần ấy bèn
oán trời hờn người, chẳng biết là tự
làm, tự chịu! Thật sự hiểu rơ ràng, minh bạch,
[sẽ thấy Phật pháp] vốn là sự giáo dục tốt
nhất trong thế gian và xuất thế gian!
Thầy
Phương về già dạy học tại Đài Loan, từ
lúc tôi được biết cụ cho đến khi cụ
mất, trong hơn hai mươi năm, hết thảy những
lớp cụ dạy đều là giảng kinh Phật,
nhưng cụ chẳng giảng từng bộ kinh một
mà giảng đại ư. Cụ dạy học cũng giống
như Phật Thích Ca hay Khổng Tử, dạy học chẳng
có sách giảng nghĩa, chẳng có sách giáo khoa. Cũng may là
thuở ấy, cụ c̣n phóng khoáng hơn thầy Lư một
chút. Thầy Lư giảng kinh chẳng cho phép người khác
thâu âm, thâu h́nh càng không chấp nhận! Nếu quư vị
mang máy ghi âm đến, Ngài sẽ chẳng giảng,
nhưng thầy Phương cho phép học tṛ ghi âm, chuyện
này cũng tốt lắm. Quư vị đọc Toàn Tập
[của cụ Phương Đông Mỹ] sẽ thấy
đó là do học tṛ ghi lại, ghi từ đâu ra? Chép từ
băng thâu âm ra. Sách do chính cụ viết không nhiều lắm,
chỉ có mấy loại, hiện thời Toàn Tập có kích
thước lớn như vậy toàn là chép từ băng
thâu âm ra. Cụ chẳng thích dùng sách, cũng chẳng thích
dùng bài giảng soạn sẵn, mà tùy ư nói ra không hạn chế.
Tôi theo cụ một thời gian, cụ đặc biệt
giảng cho một ḿnh tôi. V́ thế, tôi là học tṛ rất
đặc biệt, các bạn đồng học rất
hâm mộ. Ở Hương Cảng, tiên sinh Đường
Quân Nghị[2] là học tṛ của cụ. Những
học tṛ thuở đầu ai nấy đều có thành tựu
rất khá. V́ thế, phương pháp cổ nhân đă sử
dụng hiện thời vẫn c̣n có người dùng,
nhưng học sinh phải có một tŕnh độ nhất
định. Chưa đạt đến tŕnh độ,
nghe giảng cũng chẳng hiểu thầy đang giảng
ǵ! Thật sự nghe hiểu, sẽ thấy vô cùng thú vị.
Do
vậy, phải hiểu: Hết thảy các kinh Phật,
không chỉ là một bản kinh này, mà hết thảy đều
là tự tánh, là một phần của Tánh Đức, một
phần là toàn phần. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Một tức là nhiều, nhiều tức là một”.
Chuyện này vừa mới được Lượng Tử
Lực Học phát hiện. Lượng Tử Lực Học
phát hiện bất luận một tế bào nào, một phân
tử c̣n nhỏ hơn tế bào, nhưng trong một phân tử
có thông tin viên măn về vũ trụ, họ phát hiện
điều này! Trong Phật pháp, điều này được
nói rất nhiều. Phật pháp nói trong mỗi một hạt
vi trần có toàn thể vũ trụ. Trong vi trần có thế
giới, thế giới chẳng rút nhỏ, vi trần chẳng
ph́nh to, trong ấy có thế giới viên măn. Đối với
thế giới ấy, chúng ta đă đọc kinh Hoa Nghiêm,
thấy kinh nói ai có thể thấy thế giới trong vi trần?
Phổ Hiền Bồ Tát. Phổ Hiền Bồ Tát có thể
đến tham học và giáo hóa chúng sanh trong thế giới
ở trong vi trần. Mỗi hạt vi trần đều
là như vậy, chẳng có ngoại lệ, một chính là
nhiều, nhiều chính là một. Một và nhiều chẳng
hai! Trong tự tánh không có lớn hay nhỏ, chẳng có xa
hay gần. Không có xa gần là chẳng có không gian; không có
trước sau là chẳng có thời gian, không có đối
lập. Đấy chính là Tánh Đức viên măn thấu lộ.
Tiếp
đó, sách viết: “Hựu tùng
Giáo khởi Hành, cố hạ văn trung Trang Nghiêm Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác tức thị Phật sở giáo hóa chi
diệu hạnh dă” (Lại
c̣n từ Giáo khởi Hành nên Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác chính là diệu hạnh do đức Phật giáo hóa). Nay chúng ta nói Trang Nghiêm là “mỹ hảo” (đẹp đẽ), Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác là điều chúng ta tu học.
Tôi cũng có một
cách giảng riêng khác với cách giảng của cụ
Hoàng, tôi nghĩ cách tôi nói khiến cho mọi người dễ
hiểu hơn. Tôi đem [tựa đề kinh] phối hợp
với ba giai đoạn tu học là A La Hán, Bồ Tát, và Phật.
Buông chấp trước xuống, chẳng c̣n chấp
trước hết thảy các pháp thế gian và xuất thế
gian, tâm thanh tịnh hiện tiền; đấy là A La Hán.
Bước thứ nhất là quư vị khôi phục tâm thanh
tịnh. Tiến hơn bước nữa là buông phân biệt
xuống, chẳng c̣n có ư niệm phân biệt, tâm quư vị
đắc định. Chẳng c̣n phân biệt là tâm b́nh
đẳng hiện tiền; đấy là Bồ Tát. A La Hán
c̣n có phân biệt, Bồ Tát chẳng phân biệt. Cuối
cùng, khởi tâm động niệm đều không có, sự
giác ngộ ấy chính là Phật Đà. V́ thế, “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác” là ba tầng tu học theo thứ tự,
ba giai đoạn. Bậc thượng thượng căn
bỏ ngay, đoạn ngay khởi tâm động niệm,
phân biệt, chấp trước, Lục Tổ Huệ
Năng trong Thiền Tông là người như vậy. Ngài
có thể buông xuống ngay lập tức, nên thành Phật,
phàm phu bèn thành Phật. V́ thế, nói theo lư luận, phàm phu
thành Phật cần bao nhiêu thời gian? Một niệm!
Trong một niệm, phàm phu có thể thành Phật. Quư vị
nghĩ xem, trong một niệm chúng ta có thể tiêu diệt
tội nghiệp hay không? Quư vị chẳng hiểu rơ
ư? Hễ một niệm giác th́ mầm mống tội lỗi
đă tạo trong vô lượng kiếp sẽ chẳng c̣n
nữa, đều tiêu hết, thành Phật rồi!
Trong
kinh, đức Phật có nêu một tỷ dụ: “Pḥng tối ngàn năm”.
Căn pḥng ấy tối tăm cả ngàn năm, chẳng
hề có ánh đèn chiếu tới. Pḥng tối ngàn năm tỷ
dụ điều ǵ? Tỷ dụ thời gian quư vị tạo
tác tội nghiệp rất dài, tội rất nặng,
nhưng thắp một ngọn đèn sẽ chiếu sáng,
tối tăm chẳng c̣n nữa! V́ thế, chúng ta hiểu
đạo lư này, buông khởi tâm động niệm xuống
sẽ thành Phật. Trong kinh Đại Thừa, khởi tâm
động niệm được gọi là “căn bản
vô minh”. Tất cả hết thảy các hiện tượng
hư vọng, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp
giới là huyễn tướng, “phàm
những ǵ có h́nh tướng đều là hư vọng”,
“hết thảy hữu vi pháp,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, hết thảy mọi
người đều biết đọc những câu ấy,
nhưng quư vị có cảm nhận được hay
chăng? Chúng ta chia nó thành từng giai đoạn. Chẳng
chấp trước hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, lục đạo sẽ chẳng c̣n. V́ thế
biết: Tạo thành lục đạo nghiêm trọng nhất
chính là chấp trước. Chẳng c̣n chấp trước,
lục đạo sẽ chẳng c̣n! C̣n có tứ thánh pháp
giới, tức Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật,
đó là ǵ? Phân biệt. Quư vị có phân biệt, sẽ có [tứ
thánh pháp giới]. Chẳng có phân biệt, tứ thánh pháp giới
sẽ chẳng có, mười pháp giới cũng chẳng
có, chỉ c̣n lại cái được gọi là Nhất
Chân pháp giới. Chẳng có khởi tâm động niệm
sẽ vượt thoát mười pháp giới. Nay chúng ta hiểu
rơ: Sở dĩ cơi Thật Báo của chư Phật Như
Lai tồn tại là v́ tập khí vô thỉ vô minh chưa
đoạn sạch, nên các Ngài hiện tướng này. Khi tập
khí đoạn sạch, tướng ấy sẽ chẳng
có. Do vậy, “phàm những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng”, đức
Phật chẳng nói “trừ cơi Thật Báo của chư Phật
Như Lai ra”, chẳng nói câu ấy. Chẳng nói câu ấy
th́ nói cách khác là cơi Thật Báo cũng vậy, cũng là chẳng
thật. Tập khí vô thỉ vô minh đoạn sạch, sẽ
là h́nh dạng ra sao? Vẫn c̣n có, trong Tịnh Độ gọi
là cơi Thường Tịch Quang hiện tiền. Thường
Tịch Quang là tự tánh của chúng ta. Thường Tịch
Quang là Bổn Tế. Thường Tịch Quang chính là Bổn
Tâm đang được nói ở đây. Ở đây,
Thường Tịch Quang được gọi là “Thật
Tế lư thể”, quy về Thường Tịch Quang.
Thường Tịch là nói về tự tánh.
Huệ
Năng đại sư minh tâm kiến tánh là thấy ǵ vậy?
Thấy Thường Tịch Quang. Ngài mô tả Thường
Tịch là như thế nào, chứ các nhà khoa học chẳng
thể nói được!
- Thứ nhất
là thanh tịnh, “nào ngờ tự
tánh, vốn tự thanh tịnh”, mảy may ô nhiễm cũng
chẳng có, chưa hề bị ô nhiễm. Trong lục
đạo chẳng ô nhiễm, trong địa ngục A Tỳ
cũng không ô nhiễm, chân tánh của quư vị trước
nay chưa hề bị ô nhiễm.
- Thứ hai là
“vốn chẳng sanh diệt”,
bất sanh, bất diệt, vĩnh hằng.
- Thứ ba là “vốn tự trọn đủ”.
Trong Thường Tịch Quang, thứ ǵ cũng đều
không có. Nó chẳng phải là vật chất, mà cũng chẳng
phải là tinh thần, cũng chẳng phải là hiện
tượng tự nhiên, nhưng những thứ ấy
đều ẩn tàng trong đó, chẳng tỏ lộ ra. Vốn
tự trọn đủ, giống như máy TV. Chúng ta tắt
nguồn điện th́ thứ ǵ cũng chẳng có,
nhưng quư vị chẳng thể nói là nó không có. Quư vị
bật điện lên, nó bèn xuất hiện. Nhà Phật gọi
điều này là “ẩn hiển”.
Trong Thường Tịch Quang, [những h́nh tướng,
hiện tượng] đều ẩn, thứ ǵ cũng chẳng
có.
- Nếu gặp
duyên, “có thể sanh ra vạn
pháp”. Có thể sanh ra vạn pháp là Hiển, sanh ra mười
pháp giới, sanh ra cơi Thật Báo của chư Phật là Hiển.
Khi hiển, quư vị chẳng thể nói là nó có. Khi chẳng
hiển, chẳng thể nói là nó không có. Tự tánh vốn
định, do vậy, định rất quan trọng.
- Huệ
Năng đại sư bảo: “Nào
ngờ tự tánh, vốn chẳng dao động”, cũng
là chân tâm bất động. Vọng tâm bị động,
chứ không phải là chân tâm. Chúng ta nói “khởi tâm động
niệm”, nghĩ Đông tưởng Tây là vọng tâm, chẳng
phải là chân tâm. Đấy là thức thứ sáu, tức Ư
Thức thuộc A Lại Da, phải hiểu rơ ràng! Khoa học
[vận dụng] tận hết sức lực, đúng
như đức Phật đă nói, có thể phát hiện A
Lại Da, chứ chẳng thể kiến tánh, v́ sao? Kiến
tánh cần phải buông vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước xuống. Các khoa học gia chẳng
buông những thứ ấy xuống, nên họ chẳng thể
kiến tánh. Đạt đến cảnh giới này, khoa
học chẳng thể tiến cao hơn được nữa,
vẫn mong truy tầm, khảo sát bản thể vũ trụ,
nhưng chẳng t́m được. Chắc chắn là t́m
không được! Buông xuống sẽ t́m được.
Chuyện này đ̣i hỏi phải có công phu định lực.
V́ thế, Trang Nghiêm Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác chính là
diệu hạnh giáo hóa của đức Phật.
“Nhất
cú A Di Đà, dĩ chi trang nghiêm tự tâm, thanh tịnh tự
tâm, thị tức y giáo tu hành dă” (Một câu Di Đà dùng trang nghiêm tự tâm, thanh tịnh
tự tâm th́ chính là “y giáo tu hành”). Đây là quy về Tịnh
Độ Tông, quy về phương pháp tu hành được
giảng trong bộ kinh này, tức là một câu A Di Đà, “Phát Bồ
Đề tâm, nhất hướng chuyên niệm”. Đặc
biệt, trong xă hội hiện tiền, tai nạn rất
nhiều, chúng ta buông xuống vạn duyên, buông xuống hết
thảy, thật sự buông xuống giống như Thích Ca
Mâu Ni Phật, trong tâm chỉ có một câu A Di Đà Phật,
trừ A Di Đà Phật ra, thứ ǵ cũng đều chẳng
có, tâm quư vị vui sướng lắm, tự tại lắm!
Đấy mới là như Phương tiên sinh đă nói: “Sự hưởng thụ tối
cao trong đời người”. Chính ḿnh chắc chắn
sanh về Tịnh Độ, hễ sống thêm một ngày
trên thế giới này th́ phải thêm nỗ lực một
ngày, để làm ǵ? Nâng cao phẩm vị! Nâng cao phẩm vị
bằng cách nào? Trọn chẳng lưu luyến thế gian
này, phẩm vị của quư vị mới có thể nâng
cao. Mảy may vướng mắc đối với thế
gian này chính là sợi dây trói buộc khiến cho quư vị chẳng
thể văng sanh, quư vị đă sai rồi, hăy buông hết thảy
xuống! V́ thế, chúng ta sống trong thời đại
này, đối với một người tu hành thật sự
mong chứng quả, mong thành Phật mà nói th́ là hoàn cảnh
tốt đẹp! Lắm tai nạn là hoàn cảnh tốt
đẹp, v́ nó bức bách quư vị không dụng công cũng
chẳng được, ép quư vị không buông xuống cũng
chẳng xong. Đó gọi là Nghịch Tăng Thượng
Duyên. Nếu là đời thái b́nh thịnh trị, hết
thảy đều có thể vừa ḷng như ư, quư vị
sẽ chẳng muốn rời đi, vẫn mong sống
trên thế giới này thêm vài năm nữa. Nếu thấy
hiện thời tai nạn dồn dập như thế,
trong tâm sẽ mong “ước ǵ ta văng sanh ngay lập tức,
văng sanh ngay hôm nay là tốt nhất!” Tâm thành tựu sẽ dũng
mănh, tinh tấn, khiến cho quư vị có cái tâm cảnh giác rất
cao trong hoàn cảnh, chẳng mê hoặc mảy may nào! V́ thế,
trong các buổi giảng, chúng tôi thường nói: “Trong thế
gian này, ai cũng là người tốt, mọi chuyện
đều là chuyện tốt” Người t́m đến
gây chuyện, tạo chướng ngại đều là
người tốt, đều là chuyện tốt. V́ sao?
Khiến cho chúng ta chẳng c̣n mảy may lưu luyến thế
giới này. Đối với người tu hành, đó là
chuyện tốt, quyết định thành tựu trong một
đời này, lại c̣n thành tựu rất nhanh!
Tiếp
đó, sách viết: “Bất giả
phương tiện, tự đắc tâm khai” (chẳng
nhờ vào phương tiện, tự được tâm
khai). “Bất giả
phương tiện” là chẳng cần nhờ đến
phương pháp nào khác giúp đỡ, chỉ đơn
độc một câu A Di Đà Phật là được rồi, tự được
tâm khai. “Tâm khai” là khai ngộ,
minh tâm kiến tánh. “Viên hiển
bổn cụ chi b́nh đẳng giác, thị dĩ Hành hiển
Lư dă” (hiển lộ trọn vẹn b́nh đẳng giác
sẵn có. Ấy là dùng Hành để hiển Lư). Chúng ta thật
sự niệm, thật sự hành, trong sự niệm Phật của quư vị có Định,
Định sanh ra Huệ. Khi thật sự buông xuống,
tâm thanh tịnh hiện tiền, tâm b́nh đẳng hiện
tiền, lẽ đâu chẳng khai ngộ? Hễ khai ngộ,
tất cả nghiệp chướng đều tiêu. Chúng ta
hăy nghĩ xem, đời Đường, Huệ Năng
đại sư thật sự khai ngộ trong
phương trượng thất của Ngũ Tổ, nghiệp
chướng tiêu sạch, v́ sao vẫn phải ẩn núp
trong phường thợ săn mười lăm năm,
pháp duyên mới thành thục, v́ sao? Nghiệp chướng của
chính ḿnh đă tiêu rồi, nhưng phước báo của
chúng sanh chưa hiện tiền, chúng sanh có nghiệp chướng,
nên chẳng có cách nào! Quư vị không có cách nào tiêu nghiệp
giùm họ được! Ắt phải [chờ đến
lúc] nghiệp chướng của chúng sanh cũng tiêu mất
th́ quư vị mới có thể giúp đỡ họ. Điều
này được gọi là ǵ? “Phật
chẳng độ kẻ vô duyên”. Chúng sanh có nghiệp,
chúng sanh đáng thương, vẫn chưa thể tiếp
nhận, quư vị đành phải thong thả chờ đợi
họ, Huệ Năng đại sư có thể chờ
mười lăm năm. Sau đấy, các vị Bồ
Tát giúp đỡ Ngài. Ngài Ấn Tông là Bồ Tát, rất phi
phàm, chẳng có tí xíu tâm ghen ghét nào, Ngài là Bồ Tát, chẳng
phải là phàm nhân. Có tâm ghen ghét sẽ chèn ép, luôn mong khống
chế, lợi dụng, chiếm hữu Lục Tổ
để tạo tiếng tăm, lợi dưỡng cho
chính ḿnh. Ngài Ấn Tông không như thế, nhận biết
đại sư thật sự đắc pháp từ chỗ
ngài Hoàng Mai, là vị pháp sư được truyền y
bát, lúc đó, Lục Tổ vẫn c̣n là một cư sĩ
chưa xuống tóc, Ấn Tông bèn quy y cho đại sư.
V́ thế, ngài Ấn Tông là thầy quy y của Lục Tổ.
Sau khi xuống tóc, Ấn Tông bái Lục Tổ làm sư phụ,
bái Ngài làm thầy. Do vậy, Huệ Năng là thầy truyền
pháp cho Ấn Tông; mà Ấn Tông lại là thầy thế
độ của Huệ Năng. Hết sức phi phàm! Thuở
ấy, tại vùng Lănh Nam[3], Quảng Đông, ngài Ấn
Tông có danh vọng rất cao, pháp duyên rất thịnh, Ngài
bái đại sư làm thầy, tôn thầy lên cao, ngay lập
tức, đại sư bèn được nổi tiếng.
Ấn Tông làm hộ pháp cho Ngài, thỉnh Ngài giảng kinh,
giáo học, ai không phục? Ai chẳng nghe theo? Ấn Tông dẫn
đầu đến nghe, đến học. Điều
này được Phật pháp diễn tả là: “Nhất Phật xuất thế,
thiên Phật ủng hộ” (một vị Phật ra
đời, ngàn vị Phật ủng hộ).
“Hựu đắc văng sanh giả
ngộ Vô Sanh Nhẫn, tùng Thể khởi Dụng, phục dĩ thử
b́nh đẳng diệu pháp, b́nh đẳng phổ độ
nhất thiết chúng sanh, văng sanh Tịnh Độ, đồng
chứng Đại Giác, phục thị tùng chúng hạnh hiển
Lư dă” (Hơn nữa,
được văng sanh bèn ngộ Vô Sanh Nhẫn, từ Thể
khởi Dụng, lại dùng diệu pháp b́nh đẳng này
b́nh đẳng phổ độ hết thảy chúng sanh
văng sanh Tịnh Độ, cùng chứng Đại Giác. Đấy cũng
chính là từ các hạnh hiển lư vậy). Văng sanh mới thật sự chứng đắc
Vô Sanh. Địa vị Vô Sanh Pháp Nhẫn rất cao! Theo
kinh Đại Thừa đă giảng, hàng Đăng Địa
Bồ Tát[4] mới chứng đắc,
nhưng thật sự chứng đắc Vô Sanh Pháp Nhẫn
là từ Thất Địa trở lên. Vô Sanh Pháp Nhẫn là
ǵ? Thật ra, nay chúng ta cũng biết, hiện thời
chúng ta chưa phải là chứng ngộ, mà là giải ngộ.
Chẳng phải là chứng ngộ th́ chưa dùng được,
chẳng phải là cảnh giới của chúng ta. Chúng ta biết
đích xác, v́ sao? Quư vị đọc đoạn đối
thoại giữa Di Lặc Bồ Tát và Thích Ca Mâu Ni Phật,
sẽ biết hết thảy các pháp bất sanh, hết thảy
các pháp bất diệt. Nhẫn (忍) là quư vị thừa nhận,
đồng ư, tán thành: Hết thảy các pháp thật sự
bất sanh. Pháp là ǵ? Di Lặc Bồ Tát đă giảng: “Trong một khảy ngón tay, có ba
mươi hai ức trăm ngàn niệm, niệm niệm
thành h́nh”, “h́nh” là hiện
tượng vật chất. “H́nh
đều có thức”, thức là hiện tượng
tinh thần. Hiện tượng tinh thần và hiện
tượng vật chất do đâu mà có? Do huyễn tướng
từ ư niệm liên tục tích lũy lại! Cách nói này là
cách nói của các khoa học gia Lượng Tử, v́ họ
cũng phát hiện vật chất và tinh thần đột
nhiên phát sanh, trong Không sanh ra Có, thời gian rất ngắn
ngủi, vừa sanh ra liền bị tiêu diệt, chẳng
c̣n nữa. Đấy là hiện tượng Vô Sanh. Khoa học
gia dùng máy móc để chứng đắc, vẫn chưa
thật sự hiểu rơ ràng, nhưng người tu hành do
công phu định lực chứng đắc, công phu định
lực là ǵ? Tâm thanh tịnh hiện tiền. Khoa học gia
giống như chúng ta, chưa rời khỏi phân biệt,
chấp trước, nhờ vào máy móc để quan sát t́nh
h́nh vật chất là như thế đó.
V́
thế, các nhà khoa học nói: Dựa trên sự nghiên cứu
nguyên tử và các hạt cơ bản, đạt đến
kết luận cuối cùng, trong vũ trụ chẳng có những
thứ vật chất ǵ cả! Hiện tượng vật
chất và tinh thần đều là một hiện tượng
tích lũy liên tục của ư niệm. V́ thế, trong khi giảng
kinh Hoa Nghiêm, chúng tôi thường xuyên nhắc nhở các
đồng học: Hiện tượng ấy là hiện
tượng gần giống như liên tục (tương
tự tương tục tướng), chẳng phải là
thật sự liên tục, mà thật sự là sanh khởi
trong mỗi niệm, hiện tượng vật chất và
hiện tượng tinh thần đều độc lập,
niệm trước và niệm sau khác nhau, niệm niệm
đều khác nhau, chúng là tương tự, chẳng phải
là hoàn toàn giống nhau. V́ thế, chẳng thể nói là “liên
tục”, mà nói là “tương tự tương tục”. Do
đó, tôi cảm thấy các nhà khoa học nói như vậy
rất hay, họ nói là “tích lũy”. [Các hiện tượng
vật chất và tinh thần] đều là huyễn tướng
của ư niệm được tích lũy liên tục; cách
nói này rất khá, giảng rất rơ ràng. Quư vị thật sự
thừa nhận Vô Sanh Nhẫn, biết những thứ ấy
(các hiện tượng tinh thần và vật chất) chẳng
phải là thật, kể cả thân thể chúng ta, quư vị
liền an tâm. An tâm liền tự tại. Hễ an tâm, các tế
bào trong toàn bộ thân thể sẽ khôi phục b́nh thường.
Quư vị chẳng an ḷng, hôm nay nghĩ tới chỗ này,
ngày mai nghĩ đến gan, hôm sau lại nghĩ đến
phổi, hôm sau nữa lại nghĩ đến tim, trong
ḷng luôn căng thẳng. Căng thẳng sẽ như thế
nào? Dễ sanh ra bệnh tật, tế bào bèn sanh ra sự
biến hóa. Quư vị biết hết thảy đều
b́nh thường, hễ sanh ra liền lập tức diệt,
căn bản là quư vị chẳng c̣n nghĩ tới nó, liễu
giải chân tướng sự thật, mặc kệ nó!
Toàn bộ sẽ khôi phục b́nh thường, những tế
bào vốn mắc bệnh sẽ khôi phục b́nh thường.
Do vậy, đây là chỗ tốt đẹp tối thiểu
do học Phật, học được điều ǵ? Quư
vị chẳng ngă bệnh! Tôi lại bảo quư vị: Quư
vị chẳng chết, sanh tử là giả. Đó là thật,
chẳng phải là lời giả dối, tuyệt đối
chẳng phải là mê tín!
Do
vậy, đối với sanh tử, Phật pháp nói “liễu
sanh tử” th́ “liễu” là ǵ? Hiểu rơ! Thật sự hiểu
rơ sanh tử là chuyện ǵ, hiểu rơ ràng; v́ thế, quư vị
chẳng sợ hăi nó một chút nào! Sanh tử là chuyện
ǵ? Thay một bộ quần áo mà thôi! Thân thể vật chất
này sử dụng một khoảng thời gian đă trục
trặc rồi, trục trặc th́ thay đổi cái khác,
giống như quần áo đă mặc dơ, rách nát, hoặc
chẳng thích mặc nữa, bèn thay bộ khác, chuyện này
rất b́nh thường. Tinh thần bất diệt, không
chỉ là thay đổi, quư vị thấy thân thể này vứt
bỏ, nhưng c̣n có linh tánh. Chúng ta nói “linh hồn” th́ linh hồn
đang mê; sau khi giác ngộ chẳng gọi là “linh hồn”
mà gọi là “linh tánh”. Học Phật chẳng phải là làm
chuyện ǵ khác, mà là nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Thân thể
là cái kèm theo, linh tánh dựa vào cái thân này, thân thể chẳng
có tí xíu bệnh tật nào. Do linh hồn có mê, mê rồi nên
nó có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước,
linh tánh chẳng mê. Do vậy, sẽ h́nh thành “Kim Cang bất hoại thân” như
kinh Phật đă nói, chuyển mê thành ngộ là Kim Cang bất
hoại thân. “Từ Thể khởi
Dụng” là ǵ vậy? Ứng hóa trên thế gian là từ
Thể khởi Dụng. Lại dùng phương pháp này, tức
là dùng phương pháp “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”
để b́nh đẳng phổ độ hết thảy
chúng sanh. Phương pháp này tuyệt diệu, “thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác” ở ngay trong một câu A Di Đà Phật.
Toàn bộ câu A Di Đà Phật này là tiếng Phạn, có thể
dùng “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” để dịch ư
nghĩa của nó. A Di Đà Phật nghĩa là ǵ? “Thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”, dùng phương pháp này để
độ hết thảy chúng sanh, giúp họ văng sanh thế
giới Cực Lạc cùng chứng Vô Thượng Bồ
Đề, Đại Giác là Vô Thượng Bồ Đề,
là quay về tự tánh. Đấy là từ các hạnh
để hiển Lư. Các hạnh gồm nhiều hạnh
môn, kể cả cuộc sống hằng ngày và công việc
của chúng ta, xử sự, đăi người, tiếp vật,
toàn là A Di Đà Phật, hoàn toàn là “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”. Điều khẩn yếu là chúng ta phải thật sự
hiểu rơ, thật sự biết dùng, biết dùng
phương pháp đơn giản nhất là trong cuộc sống,
trong công việc, trong xử sự đăi người, tiếp
vật, trong tâm có A Di Đà Phật. Trong tâm trừ A Di
Đà Phật ra, thứ ǵ cũng đều không có. Câu này
(tức câu “từ Thể khởi
Dụng”) có ư nghĩa như vậy đó. Trong tâm chẳng
cần nghĩ đến “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, chỉ nghĩ tới A Di Đà Phật, bốn chữ
đơn giản là được rồi, sẽ nhập
cảnh giới ấy. Vận dụng “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” vào cuộc sống, công việc, đăi
người, tiếp vật, do các hạnh mà hiển Lư,
đấy là tự tánh.
“Nhược dĩ kinh đề
phối Tam Đại” (nếu đem tựa đề
kinh phối hợp với Tam Đại), Tam Đại là
Thể, Tướng, Dụng. Trong tựa đề kinh có
những ư nghĩa ấy hay không? “Vô Lượng Thọ thị Thể đại,
Trang Nghiêm Thanh Tịnh thị Tướng đại, B́nh
Đẳng Giác thị Dụng đại” (Vô Lượng
Thọ là Thể đại, Trang Nghiêm Thanh Tịnh là Tướng
đại, B́nh Đẳng Giác là Dụng đại), thật
sự có ư nghĩa Tam Đại, rất rơ rệt. Chúng ta
đọc phần tiếp theo: “Y Hán dịch
Vô Lượng Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác tức A Di
Đà Phật nghĩa”
(Căn cứ theo bản Hán dịch, Vô Lượng Thanh Tịnh
B́nh Đẳng Giác tức là ư nghĩa của chữ A Di Đà Phật).
Trong năm bản dịch gốc, bản dịch đời
Hán có tựa đề là Vô Lượng
Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác Kinh; tựa đề này là
dịch theo nghĩa, nguyên văn tiếng Phạn là A Di
Đà. “Cánh khả dĩ bổn
kinh đề phối tam giác. Vô Lượng Thọ Phật
thị ngă Bổn Giác. Phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm, dĩ trang nghiêm tự tâm thị
danh Thỉ Giác. Thỉ Giác hợp Bổn Giác, trực xu Cứu
Cánh Giác, tức đề trung Thanh Tịnh B́nh Đẳng
Giác dă” (ta có thể đem tựa đề kinh này phối
hợp với Tam Giác. Vô Lượng Thọ Phật là Bổn
Giác của ta. Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên
niệm để trang nghiêm tự tâm là Thỉ Giác. Thỉ
Giác hợp với Bổn Giác, tiến thẳng đến
Cứu Cánh Giác chính là Thanh Tịnh B́nh Đẳng Giác trong tựa
đề kinh). Đây là phối hợp với ba món Giác: Thỉ
Giác, Bổn Giác, và Cứu Cánh Giác. Trong đó, Bổn Giác là
Lư thể, Thỉ Giác là bắt đầu tu hành. Chúng ta suốt
ngày mê muội, bất giác, quư vị phải hiểu: Niệm
Phật là giác chứ không mê. Nhưng quư vị phải biết:
Nếu không hiểu, mà chẳng nghe kinh, chẳng học
giáo, quư vị niệm câu A Di Đà Phật này vẫn là mê
hoặc, điên đảo, mê tín, A Di Đà Phật là ǵ?
Không biết! Người ta nói A Di Đà Phật là ǵ?
“Tượng Phật được thờ trong nhà tôi là A
Di Đà Phật”, kẻ ấy bèn chỉ vào tượng
đó, về căn bản chẳng biết A Di Đà Phật
là ǵ! A Di Đà Phật là tự tánh, là bổn tánh của
chính ḿnh, là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” chính ḿnh vốn
sẵn đủ. Liễu giải th́ khi niệm sẽ
tương ứng, giống như phương pháp
được gọi là Tam Mật Tương Ứng trong
Mật Tông:
Tiếp
đó là: “Hựu khả giải
vi B́nh Đẳng Giác thị ngă Bổn Giác. Khởi tâm niệm
Phật, dĩ tự trang nghiêm, thị vi Thỉ Giác. Thỉ
Bổn bất ly, trực xu giác lộ, đốn nhập
Tịch Quang, chứng Vô Lượng Thọ. Như thị
tắc B́nh Đẳng Giác thị ngă nhân tâm, Vô Lượng
Thọ thị ngă Quả Giác. Như thị diệu nghĩa
triển chuyển vô tận, tất tại nhất đề
chi trung” (Lại có thể hiểu
như sau: B́nh Đẳng Giác là Bổn Giác của ta, khởi
tâm niệm Phật để tự “trang nghiêm” là Thỉ
Giác. Thỉ, Bổn chẳng rời nhau, thẳng tiến
trên đường giác ngộ, chóng vào được Tịch
Quang, chứng Vô Lượng Thọ. Như vậy, B́nh Đẳng
Giác là nhân tâm (cái tâm dùng làm nhân, cái tâm tu nhân) của ta, Vô
Lượng Thọ là Quả Giác của chúng ta). Diệu
nghĩa được phát triển đến vô tận
như thế, nhưng đều nằm gọn trong tựa
đề). Những ư nghĩa ấy
đều bao gồm trong tựa đề kinh, trong tựa
đề kinh bao hàm vô lượng nghĩa, thật vậy,
chẳng giả! “Thị cố
Viên Trung Sao sớ viết: ‘Văn thủ đề danh tự,
hoạch vô lượng công đức’. Sao viết: Như
Kim Quang Minh, cập chư Đại Thừa, đa tác thử
thuyết” (V́ vậy, trong sách Viên Trung Sao có lời sớ
như sau: “Nghe tựa đề kinh được vô
lượng công đức”. Lời Sao giảng: “Như
kinh Kim Quang Minh và các kinh Đại Thừa khác phần nhiều
nói như vậy”). Từ các bản chú sớ kinh Đại
Thừa của cổ đức, chúng ta thấy nói như vậy
rất nhiều! Không chỉ là tựa đề kinh trọn
đủ viên măn vô lượng nghĩa, mà trong các buổi
giảng, chúng tôi đă từng báo cáo cùng quư vị: Một
câu A Di Đà Phật trọn đủ vô lượng nghĩa.
Trong một câu A Di Đà Phật dung nhiếp trọn vẹn
tựa đề của mười hai bộ kinh, [nói
“mười hai bộ kinh” ở đây] là nói tới mười
hai bản dịch gốc [của kinh Vô Lượng Thọ].
Mỗi tựa đề đều được bao gồm
trong Phật hiệu. V́ vậy, quư vị niệm một
câu Phật hiệu này là niệm trọn hết tựa
đề của mười hai bộ kinh, niệm tựa
đề là niệm toàn bộ bản kinh. Niệm toàn bộ
kinh này sẽ giống như niệm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm
và hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă giảng
trong bốn mươi chín năm, chẳng sót một bộ
nào! Chúng ta học phần giải thích tựa đề
kinh của cụ Hoàng Niệm Tổ đến đây [là
xong].
Tiếp theo
đây, tôi sẽ đơn giản giới thiệu cách tôi
giảng tựa đề bộ kinh này như thế nào
khi tôi giảng kinh này trong quá khứ. Hiện thời, chúng
tôi giảng bộ kinh này lần thứ mười một,
trước kia đă giảng mười lần, nhưng
cả mười lần, chúng tôi không giảng bản Chú
Giải của cụ Hoàng Niệm Tổ, chỉ là giảng
kinh, chẳng giảng chú giải. Tham khảo chú giải, sử
dụng một phần, c̣n lần này là học tập bản
Chú Giải chẳng sót một chữ nào. “Phật Thuyết Đại Thừa”, Phật là
Thích Ca Mâu Ni Phật nói, ư nghĩa này rất rơ rệt. Phật
là Thích Ca Mâu Ni Phật, Bổn Sư. “Thuyết” là thỏa thích điều từng ấp
ủ trong ḷng. Đức Phật xuất hiện trên thế
gian này, nhằm mục đích ǵ? V́ rộng độ chúng
sanh, giúp chúng sanh mau chóng thành Phật. Dùng phương pháp ǵ
để giúp chúng sanh có thể thành Phật trong một
đời? Bằng pháp môn này, bằng bộ kinh này! Đức
Phật thấy chúng sanh cơ duyên thành thục; cơ duyên
là ǵ? Họ có thể tin, nghe hiểu, lư giải. Sau khi nghe
hiểu, họ sẽ chịu làm, chịu phát nguyện văng
sanh, cơ duyên đă chín muồi! Phật bèn giảng bộ
kinh này cho mọi người, nhằm măn nguyện của
quư vị, một đời này, quư vị chắc chắn
sẽ được như nguyện, sanh về thế giới
Cực Lạc, thân cận A Di Đà Phật, đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới tu hành chứng
quả, thành Phật độ sanh giống như Ngài.
Đấy là ư nghĩa của hai chữ Phật Thuyết.
“Đại Thừa” là trí huệ,
v́ trong phẩm [Như Lai] Xuất Hiện của kinh Hoa
Nghiêm, đức Thế Tôn đă bảo chúng ta: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”.
Tôi [dùng điều đó để] dung thông, phối hợp
với tựa đề kinh này th́ “Đại Thừa” là trí huệ sẵn có trong bổn
tánh, “Vô Lượng Thọ”
là tự tánh trọn đủ các đức, “Trang Nghiêm” là tự tánh vốn
trọn đủ tướng hảo. Trí huệ và đức
tướng là quả. Quả đương nhiên có nhân,
nhân là ǵ? Nhân là “Thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác”. Tu ba nhân ấy, quư vị sẽ chứng
quả Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm,
tức Phật quả. Thanh tịnh: Người học Phật
chúng ta tu ǵ? Tu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”. Dùng
phương pháp ǵ để tu? Tám vạn bốn ngàn pháp
môn! Tám vạn bốn ngàn là phương pháp, đường
lối. Tu ǵ? Tu “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, kinh này
trực tiếp chỉ dạy chúng ta. “Thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác” là Tam Học, Tam Huệ. Tam Học là Giới
- Định - Huệ, thanh tịnh là Giới, b́nh đẳng
là Định, giác là Huệ, Giới - Định - Huệ
Tam Học. “Thanh tịnh, b́nh đẳng, giác” là Tam Tạng,
mười hai bộ kinh (thể loại kinh) trong Tam Tạng.
Thanh tịnh là Luật Tạng, b́nh đẳng là Kinh Tạng,
giác là Luận Tạng. Quư vị thấy đó là Tam Học,
Tam Tạng. Lại c̣n là Tam Bảo, thanh tịnh là Tăng Bảo,
lục căn thanh tịnh chẳng nhiễm mảy trần
là Tăng Bảo, tức người tŕ giới. Hiện
thời xuất hiện vấn đề: Tại gia học
Phật chẳng thể hành Thập Thiện Nghiệp
đạo, xuất gia học Phật chẳng làm
được Sa Di Luật Nghi, nên vấn đề xuất
hiện! V́ thế, bất luận tại gia hay xuất gia
học Phật cũng đều chẳng thể thành tựu.
Trong vài chục năm qua, chúng tôi thấy vấn đề
này quá nhiều, nghĩ bao nhiêu năm mới nghĩ ra v́ sao
có hiện tượng ấy, v́ sao cổ nhân chẳng giống
như vậy? Cổ nhân dù tại gia hay xuất gia đều
có thể tu hành chứng quả, v́ sao người hiện
tại lại không được?
Suy
đi nghĩ lại, cuối cùng t́m ra cội rễ của
vấn đề. Kể từ sau khi nhà Măn Thanh mất
nước cho đến hiện tại, trong một
trăm năm thuộc thế kỷ này, chúng ta đă sơ
sót không vun bồi căn bản giáo dục. Trước
kia, quả thật là hai mươi năm đầu thời
Dân Quốc, tức là hai mươi năm sau khi nhà Măn Thanh
mất nước, vẫn c̣n ảnh hưởng, người
trong xă hội thuở ấy vẫn c̣n phổ biến coi
trọng giáo dục luân lư, đạo đức, nhân quả,
hết sức coi trọng! Chúng tôi thuở bé cũng
được hưởng lây một chút, vun bồi
căn bản giáo dục rất trọng yếu. Cổ ngạn
ngữ Trung Quốc có câu: “Giáo
nhi anh hài, giáo phụ sơ lai” (dạy con từ thuở
c̣n thơ, dạy vợ từ thuở ban sơ mới về),
dạy con cái là dạy ra sao? Từ thuở trứng nước,
con sanh ra gọi là “anh hài”. Dạy
con dâu, khi cưới vợ về, vừa vào cửa liền
dạy dỗ, dạy vợ từ thuở ban đầu;
nếu không, vợ sẽ dưỡng thành thói quen, chẳng
nghe lời quư vị. Con thơ từ lúc được
sanh ra phải dạy dỗ. Nó sanh ra, mở mắt ra sẽ
thấy, tai sẽ nghe tiếng, tuy nó chưa thể nói chuyện,
nhưng đă học tập, học ǵ vậy? Học theo
người lớn. Đầu tiên là cha mẹ mỗi ngày
dẫn dắt nó. Cha mẹ khởi tâm động niệm,
lời nói, việc làm, cử chỉ đối với nó
đều có ấn tượng. Một ngh́n ngày từ lúc
được sanh ra cho đến ba tuổi được
gọi là “vun bồi căn bản giáo dục”. Có được
một ngh́n ngày ấy, cổ nhân bảo “tam tuế khán bát thập”; [nghĩa là] dạy dỗ
kỹ càng một ngàn ngày [từ lúc sanh ra] cho đến lúc
ba tuổi th́ tám mươi tuổi sẽ không thay đổi,
có căn bản rồi! Đầu thời Dân Quốc, xă hội
Trung Quốc chẳng an định, quân phiệt cát cứ,
tiếp đó, chiến tranh với người Nhật.
Sau tám năm kháng chiến, Trung Quốc chiến bại, chẳng
có chiến thắng, bại ở chỗ nào? Vứt bỏ
truyền thống văn hóa Trung Quốc, chẳng c̣n gia
giáo. Không chỉ chẳng có gia giáo, mà gia tộc cũng chẳng
c̣n! Hăy nên biết Trung Quốc thời cổ là đại
gia đ́nh, ngũ đại đồng đường[5], chẳng tách thành tiểu gia
đ́nh. V́ thế, mỗi nhà có gia quy, có gia đạo, gia học,
gia nghiệp. Sau khi kháng chiến thắng lợi, toàn bộ
đều chẳng c̣n. Đấy là chúng ta bị đánh bại,
bề ngoài là thắng lợi, chứ thật sự là bị
đánh bại!
Nếu
thật sự chiến thắng, xă hội ngày nay sẽ ổn
định vững bền, phải thịnh vượng
giống như thuở Hán, Đường, đại quốc
mênh mông. V́ sao ngày nay chúng ta vẫn khổ sở, xă hội
động loạn như thế, đấy là chiến bại,
bề ngoài là thắng lợi, chứ trên tinh thần đă
xong hết cả rồi, chúng ta chớ nên không biết
nguyên nhân ấy! Do vậy, tôi đă nghĩ học Phật
th́ phải t́m lại sự vun bồi căn bản giáo dục
ấy. Dùng ǵ để vun bồi? Dùng ba căn bản của
Nho, Thích, Đạo, mọi người đă sơ sót những
điều này. Căn bản của Nho là Đệ Tử
Quy, căn bản của Đạo là Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên, căn bản của Phật là Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Nếu ba căn bản này đă
được dạy dỗ tốt đẹp từ nhỏ,
th́ Sa Di Luật Nghi rất dễ dàng, v́ mỗi điều
đă nói trong Thập Thiện Nghiệp đă đều có
thể làm được. Lúc ấy mới khiến cho
chúng tôi nghĩ ra v́ sao người thuở trước học
Phật dễ thành tựu như vậy mà hiện thời
không được, hiện thời vun bồi căn bản
giáo dục do ai dạy? TV dạy! Học sinh lên lớp học
theo Internet. Dạy ǵ? Dạy bạo lực, t́nh dục, giết,
trộm, dâm, dối! Căn bản để học Phật
của quư vị được vun bồi bằng bạo
lực, t́nh dục, giết, trộm, dâm, dối, làm sao quư
vị học Phật tốt đẹp cho được?
Xă hội làm sao yên ổn cho được? Có thể nào chẳng
xảy ra tai nạn? Toàn bộ vấn đề đă
được bộc lộ, chúng ta thấy rơ ràng, rành rẽ.
V́ thế, nhiều năm qua, chúng tôi cực lực đề
xướng phải học ba căn bản, nhằm học
bù đắp những chỗ sai sót. Học Phật là học
từ đâu? Học từ Đệ Tử Quy, không làm
được Đệ Tử Quy th́ quư vị học Phật
một trăm năm, hay ba trăm năm đều vô dụng,
thiếu căn bản! Nếu làm được Cảm Ứng
Thiên, Thập Thiện Nghiệp Đạo sẽ chẳng
có vấn đề. Quư vị không vun bồi cội rễ
ở chỗ này, đúng là [học Phật] ba trăm
năm, tối đa bất quá là trở thành học giả
mà thôi. Tối đa là giống như tôi đă thấy tại
nước Anh, những nhà Hán học, những vị giáo
sư lừng danh, hoặc những người giống
như họ, chẳng thể thật sự thụ dụng
Phật pháp, những lợi ích trước mắt đều
chẳng đạt được, sức khỏe, trường
thọ, phiền năo nhẹ bớt, trí huệ tăng
trưởng, đó là những ǵ [lẽ ra] quư vị phải
đạt được trong hiện tiền, nhưng quư
vị vẫn lắm phiền năo, thiếu trí huệ, c̣n
làm sao được nữa? Sai lầm rồi! Sai lầm
do coi nhẹ căn bản. Vun bồi căn bản giáo dục
trọng yếu lắm; may sao là trong mấy năm nay, trong
nước đă dần dần coi trọng Đệ Tử
Quy, dần dần cũng coi trọng Cảm Ứng Thiên, tốt
lắm! Quốc gia, dân tộc vẫn c̣n có tiền đồ.
Trong
phần trước, chúng ta đă nói tới sự trọng
yếu của Phật; Phật là phước báo bậc nhất
trong thế gian và xuất thế gian. Quư vị chẳng học
Phật sẽ không tu phước. Chẳng tu phước
sẽ chẳng có phước báo, thiếu phước báo
sẽ khổ sở. Đại phú đại quư trong thế
gian này là do tu từ đâu? Đời quá khứ đă tu
trong Phật môn, trong Phật môn có thể tu cái nhân đại
phú đại quư, cảm được quả báo phú quư.
Hiện tại, hưởng phú quư, nhưng chẳng tu nữa,
phước báo sẽ hưởng hết rất nhanh. Sau
khi hưởng hết, khổ nạn sẽ hiện tiền.
Đấy là đạo lư nhất định, chớ nên
không biết. V́ thế, sau khi vun bồi tốt đẹp
ba căn bản, quư vị lại khéo học Phật,
phước huệ song tu, tiền đồ sẽ tốt
đẹp vô lượng, cớ sao chẳng làm? Bởi lẽ,
nhà Phật tu hành là “thanh tịnh, b́nh đẳng, giác”, thanh
tịnh là Chánh Giác, b́nh đẳng là Chánh Đẳng Chánh
Giác, sau đấy là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác. Trong giáo pháp Đại Thừa, từ trong kinh điển,
chúng ta thường đọc thấy A Nậu Đa La Tam
Miệu Tam Bồ Đề, tức là “thanh tịnh, b́nh
đẳng, giác”. Do vậy, tu thanh tịnh như thế
nào? Chẳng chấp trước, đoạn Kiến
Tư phiền năo là thanh tịnh. Chẳng phân biệt,
đoạn Trần Sa phiền năo bèn b́nh đẳng. Không
khởi tâm, chẳng động niệm, Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác liền hiện tiền, đạt
được quả báo Đại Thừa Vô Lượng
Thọ Trang Nghiêm. “Trang Nghiêm” có
ư nghĩa vô cùng rộng! Thường Tịch Quang, cơi Thật
Báo Trang Nghiêm, y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới
thảy đều hàm nhiếp trong ấy. Đây là nói
đại lược về tựa đề bộ kinh
này.
Tôi nói kiểu
này đơn giản, dễ hiểu, dễ lănh hội, quư
vị mới biết nội dung giáo học trong bộ kinh
này phong phú khôn sánh, thật sự giúp chúng ta giải quyết
hết thảy vấn đề. Bất cứ một nghề
nghiệp nào trong xă hội nẩy sanh vấn đề,
đều có thể t́m được lời giải quyết
trong đây. Về chánh trị, cũng chẳng phải là
ngoại lệ, đều có thể giúp quư vị giải
quyết những chỗ nẩy sanh vấn đề. Cớ
sao quư vị chẳng học? Hôm nay đă hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới chỗ này!
Tập 82
“Chánh thích kinh nghĩa” (chính thức
giải thích ư nghĩa kinh văn), đây là phần lớn
thứ ba trong [bản Chú Giải] kinh này, chính thức giải
thích ư nghĩa trong kinh văn. “Tiền
minh toàn kinh cương tông” (trong phần trên, đă nói về
cương lănh và tông chỉ của cả kinh), nêu
cương lănh và tông chỉ, “dữ
kinh đề tổng nghĩa” (và ư nghĩa tổng quát
của tựa đề kinh). “Cẩn
dĩ cục tâm hạn lượng chi ngôn, lược chương
Tịnh Tông vô tận chi diệu” (kính cẩn dùng cái tâm hạn hẹp để phô bày
đại lược sự mầu nhiệm vô tận của
Tịnh Tông), đây là lời khiêm hư của cụ Hoàng
Niệm Tổ. “Cục tâm hạn lượng” ư nói: Chưa khai ngộ, tâm lượng phàm
phu. Sau khi khai ngộ, tâm lượng sẽ giống như
Phật, Bồ Tát, quả thật là “tâm bao thái hư, lượng châu sa giới” (tâm trọn
khắp hư không, tâm lượng rộng khắp các cơi
nhiều như cát). “Cục”
(局) là có giới hạn, “cục tâm hạn lượng”
là tâm lượng và kiến giải phàm phu. “Lược chương Tịnh Tông”, đây là một
bộ kinh điển trọng yếu nhất trong Tịnh
Tông, quả thật là vô tận diệu nghĩa. “Tư y tiên lệ, toàn kinh phân
tam” (nay dựa theo lệ trước, chia toàn bộ kinh
này thành ba phần), “tiên lệ”
là thông lệ giảng giải kinh văn của cổ thánh
tiên hiền, luôn chia một bộ kinh thành ba phần lớn,
tức là ba bộ phận. Bộ phận thứ nhất gọi
là Tự Phần, bộ phận thứ hai là Chánh Tông Phần,
bộ phận thứ ba gọi là Lưu Thông Phần. Tự
(序) là như trong các tác phẩm
văn chương hiện thời, phía trước có phần
Tự Luận (dẫn nhập), giữa là Chánh Thuyết (nội
dung chánh yếu), sau đó là Tổng Kết, ba đoạn
lớn như vậy. Trong kinh Phật, bản thân mỗi
kinh có ba đoạn, thứ nhất là Tự, sau Tự là
Chánh Tông, sau Chánh Tông là Lưu Thông, [phần này] cũng gần
như quá nửa là đức Phật dặn ḍ chúng ta nên
thực hiện nghĩa lư, giáo huấn và cảnh giới của
bộ kinh này như thế nào trong cuộc sống hằng
ngày, nâng cao chính ḿnh, thậm chí thực hiện trong công việc,
trong toàn bộ công tác. Đây là dạy quư vị sau khi chính
ḿnh đă thành tựu, c̣n phải tạo ảnh hưởng
người khác, mong cho người khác cũng có thể tu
học, cùng nâng cao cảnh giới giống như chính ḿnh.
Đấy là Lưu Thông Phần.
“Ngẫu Ích đại sư viết:
Tự như thủ, ngũ quan câu tồn. Chánh Tông như
thân, phủ tạng vô khuyết. Lưu Thông như thủ
túc, vận hành bất trệ” (Ngẫu Ích đại sư nói: “Tự như
đầu, ngũ quan đầy đủ. Chánh Tông như
thân, phủ tạng chẳng thiếu, Lưu Thông như
chân tay, vận hành không trệ ngại”). Thuở tại thế,
suốt đời Ngẫu Ích đại
sư cũng giảng kinh giáo học. Ngẫu Ích đại
sư là người xuất gia thuở trước, sống
vào những năm cuối triều Minh và những năm
đầu triều Thanh. Ngài sống vào cuối đời
Minh, viên tịch trong đời Thanh, là tổ sư đời
thứ chín của Tịnh Độ Tông. Trước tác vô
cùng phong phú, tuy tuổi tác chẳng cao lắm, sáu
mươi mấy tuổi đă viên tịch, nhưng Ngài
lưu lại trước tác vô cùng phong phú, đúng là
trước tác suốt cả đời. Đối với
chuyện giải thích kinh chia thành ba phần, Ngài đă nêu
thí dụ, dùng con người chúng ta làm tỷ dụ: Tự
Phần giống đầu người, ngũ quan đầy
đủ, vừa nh́n thấy vẻ mặt liền biết
quư vị là người như thế nào. Kế đó là
Chánh Tông giống như thân thể, bên trong có ngũ tạng,
lục phủ. Lưu Thông Phần giống như tay chân,
quư vị có thể hoạt động, có thể khởi
tác dụng. Tiếp đó, cụ Niệm Tổ nói: “Y đại sư ư, Tự
như thủ (đầu dă) chỉ kinh chi Tự Phần do
nhân chi hữu thủ. Do thủ chi ngũ quan (mi, nhăn, nhĩ,
tỵ, khẩu) khả khuy kỳ nhân chi thiện, ác, trí,
ngu” (Theo ư đại
sư, “Tự như đầu” tức là Tự Phần
của kinh giống như người có đầu, từ
ngũ quan (lông mày, mắt, tai, mũi, miệng) có thể biết
được phần nào con người ấy là thiện
hay ác, trí hay ngu), quư vị vừa nh́n liền
hiểu rơ. “Quán nhất kinh chi
Tự phẩm, tiện khả tri toàn kinh chi Đại, Tiểu,
Thiên, Viên” (Nh́n vào Tự Phần của một bộ
kinh, liền có thể biết toàn bộ bản kinh ấy
là Đại Thừa hay Tiểu Thừa, Thiên Giáo hay Viên
Giáo). Từ Tự Phần, quư vị có thể thấy,
trong Tự Phần có ư nghĩa biểu
thị pháp. Nếu quư vị hiểu, vừa nh́n vào Tự
Phần sẽ hiểu rơ ràng, rành rẽ [những ư nghĩa
biểu thị pháp ấy]. “Cố
Tự Phần trung, diệc tất hàm hữu thâm văn”
(V́ thế trong Tự Phần ắt phải có những
đoạn kinh văn ư nghĩa sâu xa).
Điều này chẳng sai tí nào! Trong Tự Phần chứa
đựng những ư nghĩa sâu xa, quyết định chẳng
khác ǵ Chánh Tông và Lưu Thông. “Kim
y đại sư chi chỉ, phán phân bổn kinh như hạ”
(Nay y theo ư chỉ của đại sư, phân định
kinh này như sau), chia làm ba phần:
1) Phần thứ
nhất từ phẩm thứ nhất tới phẩm thứ
ba, đó là Tự Phần
2)Từ phẩm
thứ tư đến phẩm bốn mươi hai là
Chánh Tông Phần, tức là phần diễn nói chánh yếu
trong kinh này.
3) Từ phẩm
bốn mươi ba đến phẩm bốn mươi
tám là Lưu Thông Phần. Phần này rất dài, đều
thuộc về phần Lưu Thông.
“Kim chi tam phần, diệc chánh như ngă quốc
Tịnh Ảnh, Gia Tường lưỡng gia đối
bổn kinh Ngụy dịch bổn chi phán phân” (Nay
ba phần này cũng chính là cách phán định của hai vị
Tịnh Ảnh và Gia Tường[6] của Trung Quốc đối với bản
Ngụy dịch của kinh này). Quy củ của lịch đại tổ sư đại đức
đều giống nhau, nhất định chia một bộ
kinh thành ba phần. Phân đoạn sớm nhất là pháp
sư Đạo An, [Ngài làm như vậy] sớm nhất.
Sau này, tuy các vị chú giải kinh đều chia chánh kinh
thành ba phần, nhưng ba phần chia từ chỗ nào trọn
chẳng giống nhau. Đó là mỗi vị có cách nh́n khác
nhau, chúng ta phải chú tâm quán sát mới hiểu được
điều này.
Tiếp theo
đây là bộ phận thứ nhất, tức Tự Phần:
“Hựu Tự Phần phục
phân vi nhị” (Lại nữa, Tự Phần lại
được chia thành hai phần), trong Tự Phần có
hai khoa lớn. Thứ nhất là Thông Tự, thứ hai là Biệt
Tự. “Thông Tự, hựu danh
Chứng Tín Tự, chư kinh giai cụ” (Thông Tự c̣n
gọi là Chứng Tín Tự, các kinh đều có), mở
đầu hết thảy kinh đều có. “Như Thiên Thai dữ Gia Tường
đẳng” (như các vị Thiên Thai, Gia Tường
v.v...), Thiên Thai là Trí Giả đại sư, ngài Gia Tường
chú giải kinh Vô Lượng Thọ. “Y Pháp Hoa Luận dĩ lục chủng thành tựu vi
Chứng Tín Tự. Lục thành tựu giả, Tông Mật
đại sư viết” (dựa
theo Pháp Hoa Luận[7], lấy sáu thứ thành tựu làm Chứng
Tín Tự. Sáu thứ thành tựu là như Tông Mật đại
sư nói), Tông Mật là tổ sư đời thứ
năm của tông Hoa Nghiêm, là học tṛ tổ Thanh Lương. Thứ nhất là Tín, thứ
hai là Văn, thứ ba là Thời, thứ tư là Chủ, thứ
năm là Xứ, thứ sáu là Chúng. “Lục duyên bất cụ, giáo tắc bất
hưng” (sáu duyên chẳng đủ, giáo pháp chẳng
thể hưng khởi). Đây là nói về giáo học; giáo
học nhất định phải có sáu
duyên này th́ mới có thể thành tựu.
Thiếu một điều, giáo học sẽ chẳng thể
thành tựu. V́ thế, [sáu điều ấy] gọi là Lục
Chủng Thành Tựu. Sáu thứ thành tựu:
- Thứ nhất
là Tín Thành Tựu, trong phần sau sẽ nói đến. Chữ
“như thị” trong kinh
văn là Tín Thành Tựu, nói rơ bộ kinh này quả thật
do đức Phật nói, chân thật đáng tin, đó là Tín
Thành Tựu.
- Thứ hai là
Văn. “Văn” là khi tôn giả
A Nan kết tập Kinh Tạng, Ngài nói: “Thích Ca Mâu Ni Phật
nói kinh này, chính tôi đích thân nghe”. Chẳng phải là nghe
nói lại, nên đáng tin cậy.
- Thứ ba là
giảng vào thời gian nào?
- Thứ
tư là do ai nói? “Chủ” là
Thích Ca Mâu Ni Phật, nhất định do đức Phật
nói.
- Thứ
năm, giảng ở nơi nào?
- Thứ sáu là
khi giảng kinh bộ kinh này, có bao nhiêu người đang
nghe?
Do vậy, sự
giáo học ấy mới là viên măn, trong đó, thiếu một
điều cũng không được, giáo học cũng chẳng
thể thành tựu. V́ thế, gọi là Chứng Tín. “Dĩ chứng kinh văn, xác vi
Phật thuyết, chân thật khả tín, cố danh Chứng
Tín” (Dùng sáu điều ấy
để chứng thực kinh văn, xác quyết đây là
lời Phật dạy chân thật đáng tin; v́ thế gọi
là Chứng Tín). Hai phẩm đầu trong
kinh này đều thuộc về Chứng Tín, phẩm thứ
nhất là “Pháp hội thánh chúng
đệ nhất”, phẩm thứ hai là “Đức tuân Phổ Hiền
đệ nhị”. Hai phẩm này đều là Chứng
Tín, cũng đều nói về sáu thứ thành tựu.
Phẩm thứ ba mới là phần Phát
Khởi kinh này, “hựu danh Phát
Khởi tự” (c̣n gọi là Phát Khởi Tự), đó
là Biệt Tự. Chứng Tín Tự là phần đầu hết
thảy các kinh văn đều có, nên gọi là Thông Tự.
Tuy [kinh nào cũng] có, nhưng trong đó, quan trọng nhất
là người nào tham gia, tức là nêu ra đức hiệu
của các vị thượng thủ nào. Giống như
nay chúng ta nh́n vào một cuộc họp, quư vị thấy
những người nào tham dự, liền biết cuộc
họp ấy nhằm bàn thảo vấn đề ǵ! Nếu
hội nghị toàn là giới giáo dục, [tức là, người
tham gia toàn là] các nhân sĩ thuộc giới giáo dục, các vị
chủ quản giáo dục như hiệu trưởng, giáo
vụ, quản giáo vụ, nhất định họ sẽ
thảo luận [về đề tài] giáo dục. Nếu những
người tham dự hội nghị này toàn là nhân viên tài
chánh, kinh tế, mậu dịch, họ nhất định
bàn về kinh tế. Do vậy, quư vị nh́n thấy người
nào tham dự, sẽ biết pháp hội ấy thảo luận
chuyện ǵ. V́ thế, trong phần Thông Tự, [nh́n vào] tên
hiệu của các vị thượng thủ được
liệt kê khác nhau, sẽ biết tánh chất khác biệt của
bộ kinh này, thảo luận những ǵ. Phát Khởi Tự
là “phát khởi toàn kinh chi
đoan do” (đầu mối phát khởi cả bộ
kinh). V́ sao đức Phật giảng bộ kinh này, trong phần Phát Khởi Tự sẽ nói rơ nguyên nhân phát
khởi của cả bộ kinh này. “Dĩ pháp bất cô khởi, khởi tất hữu
do, chư kinh các biệt, cố hựu danh Biệt Tự”
(v́ pháp chẳng thể tự khởi lên một ḿnh. Phát khởi
phải có duyên do. Duyên do phát khởi của các kinh khác nhau,
nên lại gọi là Biệt Tự). Pháp nhất định
có nguyên nhân, chẳng thể nói không có nguyên nhân nào mà sanh khởi
được, quyết định là có nhân duyên. Nhân duyên
phát khởi của mỗi bộ kinh khác nhau; v́ thế, gọi
là Biệt Tự.
“Lệ như Tiểu Bổn A Di
Đà Kinh” (chẳng hạn như Tiểu Bổn A Di
Đà Kinh), kinh A Di Đà được phát khởi không do
ai hỏi, mà do đức Phật tự nói. Đây là chuyện
như thế nào? Pháp môn này quá trọng yếu, tuy chẳng
có ai khải thỉnh, không có ai thỉnh pháp, nhưng đức
Phật thấy hết thảy chúng sanh duyên đă chín muồi.
Duyên như thế nào sẽ được gọi là “chín
muồi”? Có người nghe rồi sẽ có thể tin
tưởng, lư giải, phát nguyện, nương theo
phương pháp này tu hành văng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Tuy không có ai hỏi, nhưng đức Phật
thấy trong đại chúng có người như vậy,
cho nên chẳng cần hỏi, đức Phật tự
ḿnh nói ra. Cũng chính v́ pháp môn này là pháp khó tin, nên không ai có
thể hỏi. V́ sao? Phàm phu thành Phật trong một đời,
ai có thể tin tưởng? Nếu quư vị nói tu hành ba
đại A-tăng-kỳ kiếp, vô lượng kiếp
mới có thể thành tựu, sẽ có rất nhiều
người tin tưởng. Phàm phu nghiệp chướng
sâu nặng, có thể thành Phật trong một đời,
chưa hề có ai nghĩ đến vấn đề này,
cho nên không có ai hỏi; nhưng đức Phật thấy
trong các chúng sanh quả thật có căn cơ ấy, họ
thật sự hiểu, thật sự làm, sẽ thành tựu
trong một đời. Quư vị nói xem pháp môn này có thù thắng
lắm hay chăng? Pháp môn thù thắng khôn sánh, cho nên đức
Phật chẳng đợi ai hỏi, tự ḿnh nói ra. C̣n bộ
kinh này th́ “bổn kinh tắc
nhân Thế Tôn phóng quang, hiện thụy” (kinh này do đức
Thế Tôn phóng quang minh, hiện tướng lành), cuối
phần Biệt Tự chúng ta có thể thấy, [đức
Phật] làm như vậy để dẫn dắt tôn giả
A Nan khải thỉnh, nêu câu hỏi. “Các kinh bất đồng, cố danh Biệt Tự.
Kim kinh đệ tam phẩm thuộc chi” (Mỗi kinh chẳng giống nhau nên gọi
là Biệt Tự. Phẩm thứ ba của kinh này thuộc
về phần Biệt Tự), đấy là Biệt Tự
của bộ kinh này. Từ phẩm thứ tư trở
đi là phần Chánh Tông.
Trước
hết, chúng ta xem đoạn lớn thứ nhất giảng
về Thông Tự, “Pháp hội
thánh chúng đệ nhất”, trong đây bao hàm học vấn
to lớn, tuy kinh văn không dài, chỉ có bốn hàng kinh
văn. Chúng ta đọc kinh văn:
Như thị ngă
văn, nhất thời Phật tại Vương Xá thành,
Kỳ Xà Quật sơn trung. Dữ đại tỳ-kheo
chúng vạn nhị thiên nhân câu. Nhất thiết đại
thánh, thần thông dĩ đạt. Kỳ danh viết: Tôn
giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất,
tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp,
tôn giả A Nan đẳng, nhi vi thượng thủ. Hựu
hữu Phổ Hiền Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ
Tát, Di Lặc Bồ Tát, cập Hiền Kiếp trung nhất
thiết Bồ Tát, giai lai tập hội.
如是我聞。一時佛在王舍城耆闍崛山中。與大比丘眾萬二千人俱。一切大聖。神通已達。其名曰。尊者憍陳如。尊者舍利弗。尊者大目犍連。尊者迦葉。尊者阿難等。而為上首。又有普賢菩薩。文殊師利菩薩。彌勒菩薩。及賢劫中一切菩薩。皆來集會。
(Tôi nghe như thế này: Một thời,
đức Phật ở tại thành Vương Xá, trong núi
Kỳ Xà Quật, với các đại tỳ-kheo chúng một
vạn hai ngàn người câu hội. Hết thảy các vị
đại thánh đă đạt thần thông, tên các Ngài là:
Tôn giả Kiều Trần Như, tôn giả Xá Lợi Phất,
tôn giả Đại Mục Kiền Liên, tôn giả Ca Diếp,
tôn giả A
Đoạn
Thông Tự được nói đến chỗ này. Đối
với đoạn kinh văn này, chúng ta xem trong năm bản
dịch gốc, trong mỗi bản liệt kê số người
rất nhiều, lăo cư sĩ Hạ Liên Cư khi hội
tập đă chỉ chọn năm vị tôn giả làm
đại biểu, ba vị Bồ Tát, năm vị Thường
Tùy đệ tử, tỉnh lược rất nhiều.
Năm vị ấy có thể làm đại biểu cho toàn
bộ kinh hay không? Có thể chứ, từ năm vị ấy,
có thể thấy nghĩa thú của cả bộ kinh, [tức
là] nghĩa lư của cả bộ kinh hướng về
đâu. Nay chúng ta học tập kinh văn. Câu đầu
tiên là “như thị ngă văn”.
Trong phần Thông Tự ở đầu mỗi bộ kinh
đều có bốn chữ này. “Chư
kinh giai trí thử tứ tự ư kinh thủ, cái tôn Thế
Tôn chi di giáo” (Các kinh đều
dùng bốn chữ này để đặt ở đầu
kinh là do tôn trọng di giáo của đức Thế Tôn).
Kinh văn được mở đầu bằng bốn
chữ ấy là do Thích Ca Mâu Ni Phật
răn dạy. Tiếp đó, sách viết: “Thế Tôn
tương bát Niết Bàn” (đức Thế Tôn sắp
nhập Niết Bàn), khi Thích Ca Mâu Ni Phật sắp viên tịch,
“A Nan bi bất năng thắng”,
[nghĩa là] tôn giả A Nan quá đỗi bi thương, tuy
Ngài đă chứng Sơ Quả, t́nh chấp vẫn c̣n rất
sâu. Ngài A Nê Lâu Đà (Anirudha) dạy A
Thứ
nhất là đức Phật tại thế, mọi người
chúng con nương theo đức Phật làm thầy,
nương theo Phật để trụ, Phật ở
nơi đâu, chúng con đều cùng ở đó. Nay Phật
mất đi, chúng con nương theo ai? Đây chính là
như trong nhà Phật nói “y chỉ một người nào
đó”. Có ai thay mặt đức Phật hay không? Đức
Phật trả lời, chẳng dặn ḍ nương theo bất
cứ ai, mà là “y Tứ Niệm
Xứ trụ” (nương vào Tứ Niệm Xứ
để trụ). Nương
vào Tứ Niệm Xứ để trụ, chẳng khác ǵ
nương vào Phật mà trụ. Phần thứ nhất của
ba mươi bảy đạo phẩm là Tứ Niệm Xứ.
Điều thứ
nhất trong Tứ Niệm Xứ, đức Phật dạy
chúng ta “quán Thân bất tịnh”.
Quư vị phải thường nghĩ thân thể này chẳng
phải là thứ sạch sẽ, chớ nên lưu luyến
thân thể này, đừng thường v́ thân thể này mà
sanh phiền năo, v́ thân thể này mà tạo nghiệp chướng.
Nếu vậy, quư vị đă sai mất rồi, thân là giả!
Trong Phật pháp thường nói “tá
giả tu chân” (nhờ vào cái giả để tu cái thật),
chúng ta dùng cái thân thể huyễn giả này để tu
hành, nâng cao linh tánh của chính ḿnh. Điều này trọng
yếu! Thân là công cụ, quư vị hăy khéo lợi dụng
nó, chớ nên lợi dụng nó để tạo nghiệp,
phải lợi dụng nó để tu hành, đó là đúng.
Không biết tu hành, chắc chắn sẽ tạo nghiệp!
Quả báo của tạo nghiệp: Tạo thiện nghiệp
sẽ vào tam thiện đạo để tiêu nghiệp.
Tam thiện đạo hay tam ác đạo đều nhằm
tiêu nghiệp chướng. Nghiệp chướng có thiện
và ác. Tạo nghiệp bất thiện sẽ vào tam ác đạo
để tiêu nghiệp, quư vị thấy: Đều là
tiêu nghiệp, b́nh đẳng! V́ sao? Trong tự tánh thanh tịnh
tâm không có nghiệp chướng, thiện nghiệp lẫn
ác nghiệp đều không có. Ác nghiệp bất hảo,
thiện nghiệp cũng bất hảo! Phải giác ngộ
điều này, chỉ cần tạo nghiệp, quư vị sẽ
không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Luân hồi
trong lục đạo, chắc chắn thời gian quư vị
ở trong ác đạo dài lâu, thời gian ở trong thiện
đạo ngắn ngủi. Đó là sự thật, chúng ta
chớ nên không cảnh giác. V́ sao? Hễ sanh ra đời là
có phiền năo, phải biết rằng thiện hay ác đều
là phiền năo, phải biết điều này, chúng đều
là phiền năo. Trong ấy, thiện ít, ác nhiều. Trong Bách
Pháp Minh Môn Luận, đă quy nạp những nghiệp ấy
(nghiệp chướng) thành hai mươi sáu loại bất
thiện, thiện cũng được quy nạp thành
mười một loại. Quư vị thấy: So sánh giữa
hai loại này, ác c̣n nhiều hơn hai lần thiện, ác
có hai mươi sáu thứ, thiện chỉ có mười một!
Chúng ta suy ra sẽ biết v́ sao con người học
điều tốt lành rất khó khăn, học theo chuyện
xấu rất dễ dàng! Tự tánh không có thiện hay ác,
nó có thể hiện, có thể sanh, có thể hiện vạn
pháp, có thể sanh vạn pháp. A Lại Da có thể biến,
trong A Lại Da có thiện và ác, có nhiễm và tịnh. V́ thế,
trong kinh, đức Phật thường nói: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”.
Lại nh́n vào hoàn cảnh bên ngoài, hoàn cảnh
có thánh nhân trụ thế th́ hoàn cảnh thiện nhiều,
ác ít; khi không có thánh nhân trụ thế, chắc chắn là
hoàn cảnh ấy ác nhiều, thiện ít. Đối với
xă hội hiện thời của chúng ta, chuyện này quả
thật là quá rơ rệt, nói rơ điều ǵ? Cho thấy trong
thời đại này không có thiện nhân! Không chỉ
nơi chúng ta đang sống không có thiện nhân, mà cả
thế giới đều không có. Thiện nhân xuất hiện
trên thế gian, đặc biệt là bậc đại
thánh, đại hiền, chư Phật,
Bồ Tát, các Ngài thật sự từ bi. V́ sao các Ngài không
đến? Không có chúng sanh cảm, cảm ứng mà! Cho nên
các Ngài chẳng ứng. Hằng ngày, tâm chúng ta mong mỏi Phật,
Bồ Tát hiện đến, các Ngài có đến hay không?
Chẳng đến! Chúng ta cảm, v́ sao các Ngài chẳng ứng?
Chúng ta chẳng cảm bằng chân tâm, cho nên các Ngài không tới.
Do chân tâm, các Ngài sẽ đến. Chúng ta cầu Phật, Bồ
Tát, mục tiêu thứ nhất là ǵ? Làm sao để các Ngài
phù hộ tôi thăng quan, phát tài, cho nên các Ngài không tới. Nếu
khi quư vị dấy lên ư niệm, chẳng v́ phù hộ tôi,
mà do chúng sanh trong thế gian quá khổ, cầu Phật, Bồ
Tát đến giúp đỡ thế giới này, cứu khổ,
cứu nạn, các Ngài sẽ đến. Nay chúng ta thấy
các tai nạn, bao nhiêu người trên toàn thể thế giới
cầu đảo? Nhưng họ v́ ai mà cầu đảo?
Có ai chẳng v́ chính ḿnh? Cũng [có người cầu
đảo] v́ chúng sanh, nhưng v́ chính ḿnh là chủ yếu,
chúng sanh chỉ là kèm thêm! Tâm thái như vậy làm sao quư vị
cảm động Phật, Bồ Tát cho được?
Đâu có đạo lư ấy! Phải làm như thế nào?
Hoàn toàn chẳng có chính ḿnh! Hoàn toàn không có chính ḿnh sẽ chẳng
phải là người b́nh thường, trong quá khứ
đă có cơ sở tu học của thánh hiền, trong A Lại
Da Thức có chủng tử mạnh mẽ, đời này gặp
thiện duyên, gặp được thiện hữu giúp
đỡ, nên người ấy giác ngộ, hiểu rơ,
người như vậy hễ cảm bèn có ứng. V́ thế,
quán thân bất tịnh rất trọng yếu. Tu học Phật
pháp, nếu muốn nhập môn, điều thứ nhất
là buông xuống Thân Kiến, đừng chấp trước
thân là ta. Thân chẳng phải là Ta th́ thân là ǵ? Thân là cái ta
có, giống như y phục. Y phục chẳng phải là
ta, mà là cái ta có. Thân thể cũng là cái ta có, chẳng phải
là ta. Đức Phật dạy chúng ta hăy nương vào
đó để trụ.
Thứ
hai, “quán Thọ là khổ”,
Thọ là ǵ? Thọ là hưởng thụ. Thích Ca Mâu Ni Phật
đă làm được! Thuở tại thế, Ngài giữa
trưa ăn một bữa, đêm ngủ dưới gốc
cây, toàn bộ tài sản là ba y một bát, đó là toàn bộ
tài sản của Ngài, thứ ǵ cũng chẳng có. Không giống
người thế gian chấp trước thân là ta, phải
cho cái thân này hưởng thụ, v́ mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, lại c̣n thêm ư, v́ lục căn mà hưởng
thụ, tạo đủ thứ tội nghiệp. Trong khi
hưởng thụ, dường như là sung sướng,
nhưng đó chẳng phải chân lạc, v́ sao? Sau khi
sướng sẽ khổ! Sướng biến thành khổ,
chân thật ở chỗ nào? Chúng ta lắng ḷng quan sát, không
ǵ chẳng là tạo ác nghiệp. Sát sanh ăn thịt, ngỡ
đó là sướng! Chẳng biết những thứ quư vị
đă ăn đều là hữu t́nh chúng sanh, đó là sanh mạng.
Quư vị giết chúng nó, chúng nó có cam tâm t́nh nguyện để
cho quư vị giết hại hay chăng? Trong kinh, đức
Phật đă dạy: “Nhân tử
vi dương, dương tử vi nhân” (người chết
thành dê, dê chết thành người). Nay con người
ăn dê, đời sau nó đầu thai làm người, những
người ăn dê hiện thời, về sau chết
đi, đầu thai làm dê, lại bị nó ăn, oan oan
tương báo, chẳng hết, chẳng xong! Nếu quư vị
thấy nhân quả ba đời, sẽ biết nhân quả
thông ba đời. Chẳng phải là thân người này chết
đi là xong, đâu có dễ dàng như vậy? Trong các buổi
giảng, trong quá khứ, chúng tôi thường nói, không thể
chết được, chết th́ c̣n làm ǵ được
nữa! Nói thật đấy! Không thể chết th́ làm
như thế nào mới không thể chết? Niệm Phật
sẽ không chết! Quư vị phải biết: Văng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới là ra đi trong
khi sống, chẳng phải chết rồi mới đi,
quư vị phải hiểu rơ ràng! Khi quư vị lâm chung, đầu
óc sáng suốt, tai mắt thấy nghe rơ ràng, thấy A Di
Đà Phật đến tiếp dẫn quư vị, theo Ngài
ra đi, chẳng cần đến thân thể này, vứt
bỏ, ra đi trong khi c̣n sống, chẳng phải là chết
rồi mới ra đi. Do vậy, pháp môn này là “pháp môn bất tử”, ai có thể
hỏi cho được? V́ thế, kinh Di Đà là “vô vấn tự thuyết”
(không ai hỏi mà tự nói). Hơn nữa, bất luận
người nào, chỉ cần quư vị tin tưởng,
đối với ba điều kiện Tín, Nguyện, Hạnh,
chỉ cần trọn đủ ba điều kiện ấy,
không một ai chẳng văng sanh, pháp môn này đến nơi
đâu để t́m? Bất luận tạo bao nhiêu tội
nghiệp vẫn chẳng sợ, chỉ cần quư vị
chuyển biến ư niệm, thật sự cầu sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới, thân cận A Di
Đà Phật, nghiệp chướng sẽ tiêu mất. Quá
khứ, đời này thiếu nợ mạng của chúng
sanh, thiếu nợ t́nh, thiếu nợ tiền bạc, sau
khi quư vị thành Phật, bất luận họ ở trong
đường nào, quư vị đều thấy rơ ràng, sẽ
chẳng trái bổn nguyện, nhất định giúp đỡ
họ, giúp cho họ giác ngộ, giúp họ niệm Phật
văng sanh thành Phật. Ân lẫn oán đều báo! Đối
với các oan gia đối đầu, dùng đức báo
oán. Do vậy, phải hiểu: Những ǵ chúng ta hứng chịu
đúng là khổ! Trong kinh, đức Phật thường
nói tam khổ hoặc bát khổ, trong những phần sau sẽ
giảng giải.
“Quán Tâm vô thường”, “tâm” là vọng tâm. Chân tâm quư vị
sẽ chẳng quán được. Đây là chân tâm đă bị
mê mất rồi, nên thành vọng tâm, vọng tâm là vô thường.
Thật ra, Di Lặc Bồ Tát nói một cái khảy ngón tay
có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, nên gọi là “vô thường”. Nó chẳng
phải là như như bất động, vọng niệm
tơi bời, niệm trước diệt, niệm sau dấy
lên, tốc độ quá nhanh.
“Quán Pháp vô ngă”, Ngă là ǵ? Ngă có nghĩa là “chủ tể, tự tại”.
Quư vị hăy quán sát cẩn thận, trong hết thảy các
pháp đều không có chủ tể, đều là tùy duyên.
Duyên sanh, duyên diệt, trong ấy không có chủ tể, chẳng
tự tại. Chỉ có càng gần với Tánh Đức,
mới phát hiện có chủ tể, có tự tại. Do vậy,
trong Phật pháp, hễ minh tâm kiến tánh, Tứ Đức
“Thường, Lạc, Ngă ,Tịnh” sẽ hiện tiền.
Ngă ấy là Chân Ngă, Chân Lạc. Thường là vĩnh hằng
bất diệt. Lạc là chẳng có nỗi khổ nào! Ĺa
Khổ là Lạc, chủ tể chân chánh, tự tại xuất
hiện. Sau đó là Tịnh, Tịnh là thanh tịnh. Khi kiến
tánh, câu đầu tiên Huệ Năng đại sư thốt
ra là “nào ngờ tự tánh, vốn
tự thanh tịnh”, tâm thanh tịnh hiện tiền,
pháp thanh tịnh hiện tiền, thấy hết thảy
các pháp đều thanh tịnh. Đó là câu hỏi thứ nhất
“chúng con nên nương vào ai để trụ?” Đức
Phật dạy “nương vào
Tứ Niệm Xứ mà trụ”.
Câu
hỏi thứ hai là khi đức Phật tại thế,
chúng con đều tôn Phật làm thầy. Phật khuất
bóng, chúng con nương cậy ai làm thầy? Phật pháp quả
thật có người truyền thừa. Truyền Tông Môn
là tôn giả Đại Ca Diếp, truyền Giáo Hạ là
tôn giả A
Lúc
tôi học Phật, muốn t́m một nơi, nhưng t́m
không ra. Đi khắp nơi trên cả thế giới, t́m
năm mươi chín năm vẫn chưa t́m ra. Kể ra vận
số cũng c̣n khá, được mấy vị cư sĩ
hộ tŕ, chẳng đến nỗi phải hoàn tục; nếu
không, chẳng có đường nào để đi. Học
hết sức nhọc nhằn! Điều khó có là thuở
đầu tôi thân cận ba vị thầy, theo thầy
mười ba năm, đặt vững căn bản. Chẳng
có mười ba năm vun bồi căn cội ấy, nếu
muốn tự học, sẽ chẳng thể nào, mà cũng
chẳng có cách nào! V́ thế, cổ nhân nói: “Thập tải hàn song, nhất cử thành danh”
(mười năm khổ nhọc, thi đậu, thành danh)[9] là có đạo lư. Không có mười
năm công phu, đă thế, mười năm c̣n phải
thâm nhập một môn, huân tu lâu dài, quư vị mới có thể
thành tựu. Người hiện thời khác hẳn tiền
nhân, cũng chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh,
[ưa chuộng] học rộng nghe nhiều! Họ học
rất nhiều thứ, lăng phí rất nhiều thời
gian, rốt cuộc học được ǵ? Học rộng,
nhưng chẳng tinh tường. Cổ nhân dạy học
khác hẳn, tôi theo thầy Lư mười năm, mười
năm chỉ học năm bộ kinh. Tôi đă nói với
quư vị, tôi học hơn ba mươi bộ kinh, đều
là bàng thính (dự thính). Thầy dạy cho các bạn học
khác, tôi nghe ké, c̣n học chính thức chỉ có năm bộ.
Nói ra, quư vị nghe sẽ thấy rất đơn giản.
Bộ thứ nhất tôi học là A Nan Vấn Sự Phật
Cát Hung Kinh, bộ thứ hai là A Di Đà Kinh, bộ thứ
ba là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, một quyển,
tức quyển cuối cùng [của kinh Hoa Nghiêm] giảng về
mười đại nguyện vương, bộ thứ
tư là kinh Kim Cang, bộ thứ năm là kinh Lăng Nghiêm,
mười năm đấy nhé!
Khi
dạy, thầy quy định rất nghiêm ngặt,
nhưng Ngài không bó buộc học tṛ, v́ sao? Thời đại
hiện nay là dân chủ tự do rộng mở, nếu quư
vị kiềm chế quá ngặt nghèo sẽ vi phạm nhân
quyền, không được đâu, sẽ phải ngồi
tù! V́ thế, khác hẳn trước kia. Trước kia,
cha mẹ có thể dạy con cái, thầy có thể dạy
tṛ, nay th́ không thể, chỉ có thể nói là dùng thân phận
đồng học, dâng kiến nghị cho quư vị tham khảo,
quư vị tiếp nhận hay không, quư vị có chủ quyền,
chủ quyền ấy rất thiêng liêng, ai cũng không thể
can thiệp! V́ thế, trong thời đại này, có thể
thành tựu hay không là do chính ḿnh chịu trách nhiệm, thầy
có muốn lănh trách nhiệm cũng chẳng thể
được, người ấy đâu có chịu! Kể
ra chúng tôi vẫn c̣n ngoan ngoăn một chút, nghe lời, nên mới
có một chút thành tựu. Nếu chẳng nghe lời, tôi cũng
học rộng nghe nhiều, thế là xong luôn! Quả thật
cổ nhân nói có lư, “một kinh
thông, hết thảy các kinh sẽ thông”. Tuy chúng ta
chưa thông một kinh, nhưng đă dốc sức rất
nhiều nơi một bộ kinh. Một bộ kinh phải
học rất nhiều lượt, chẳng phải một
lần là xong! Mỗi lượt đều khác nhau, dần
dần sẽ nếm được pháp vị. Đặt
vững vàng cơ sở rồi, đối với kinh
chưa học, quư vị muốn học tập sẽ chẳng
khó. Chẳng hạn như tôi chưa từng học kinh Hoa
Nghiêm, kinh Pháp Hoa cũng chưa hề học, nhưng tôi
đều giảng được! Đổ công sức
nơi kinh Lăng Nghiêm, học Lăng Nghiêm với thầy
Lư, tôi giảng kinh Lăng Nghiêm bảy lần. Đó là
cơ sở, đấy cũng là một bộ kinh lớn.
Tôi nhớ năm 1977, lần đầu tiên tôi sang
Hương Cảng, giảng kinh Lăng Nghiêm suốt bốn
tháng, pháp duyên lần ấy cũng thù thắng.
V́
thế, hiện thời đạo thầy tṛ rất khó
thành tựu là có nguyên nhân, v́ sao? Trong thời đại hiện
thời, không có đạo cha con, Phật pháp là sư đạo,
sư đạo kiến lập trên cơ sở hiếu
đạo. Xă hội này chẳng có hiếu đạo,
đương nhiên cũng chẳng có sư đạo. V́
thế, vấn đề này nghiêm trọng, chẳng phải
là vấn đề nhỏ nhoi, có quan hệ đến sự
tồn vong của mạng mạch quốc gia, dân tộc và
văn hóa truyền thống. Thật sự phải là ǵ? Phải
là bậc Bồ Tát tái lai, thật sự phát đại tâm,
phải cảm nhận chính ḿnh có sứ mạng, hy sinh tánh
mạng cũng không bận ḷng ḥng học tập văn hóa
truyền thống. Sau khi học xong, sẽ dạy truyền
thống văn hóa, phát huy rực rỡ văn hóa truyền
thống. Đó là ǵ? Đó chính là Chúa Cứu Thế, Phật,
Bồ Tát tái lai, chẳng phải là người phàm! Người
phàm đến thế gian để cầu tiếng
tăm, lợi dưỡng, đến hưởng thụ
sự vui sướng do ngũ dục lục trần,
đến làm những chuyện ấy. V́ thế, đức
Phật dạy “lấy khổ
làm thầy” vô cùng hữu lư. Thật sự có thể chịu
khổ, nhẫn nhục, người ấy mới có thành
tựu. Người ấy nhất định thành tựu
giới luật, giới luật nhằm mục tiêu nào? Mục
tiêu của giới luật là tâm thanh tịnh. Chỉ có tŕ
giới quư vị mới có thể khôi phục cái tâm thanh tịnh,
tâm thanh tịnh là Thiền Định. Có công phu định
lực đạt đến độ sâu nhất định,
trí huệ sẽ khai.
Đối
với Thiền Định, quư vị phải biết, hễ
chúng ta nói đến Thiền Định, trong đầu mọi
người đều nghĩ đến quan niệm: Ngồi
xếp bằng, nh́n vào vách th́ gọi là “tham Thiền”’;
đó là phương pháp sơ học trong Thiền Tông. Quư
vị phải hiểu Thiền Định theo nghĩa rộng,
đừng hiểu theo nghĩa hẹp. Tám vạn bốn
ngàn pháp môn thảy đều là Thiền Định,
phương pháp tu học Thiền Định khác nhau,
đường lối khác nhau, nên gọi là pháp môn! Nếu
chẳng phải là tu Thiền Định, sẽ chẳng
phải là Phật pháp. Nếu là tu Thiền Định th́
gọi là Phật pháp. Nay Tịnh Độ Tông chúng ta dùng
phương pháp ǵ để tu Thiền Định? Nay
chúng ta dùng một câu Phật hiệu A Di Đà Phật, dùng
phương pháp chấp tŕ danh hiệu để tu Thiền
Định. Cách tu ra sao? Trước hết, quư vị phải
hiểu Thiền Định nghĩa là ǵ? Giảng hai chữ
Thiền Định theo cách nào? Thiền là ǵ? Định
là ǵ? Ngoài chẳng chấp tướng là Thiền, trong chẳng
động tâm là Định, toàn bộ tám vạn bốn
ngàn pháp môn đều là tu phương pháp này! Chúng ta mới
có một chút chấp trước, hoặc mới có một
tí phân biệt, liền A Di Đà Phật! Tổ sư Tông
Môn bảo: “Chẳng sợ niệm
khởi, chỉ sợ giác chậm!” Thiền Định
là giác, ư niệm mới dấy lên, bất luận thiện
niệm hay ác niệm, hễ niệm dấy lên là trật rồi!
V́ sao? Trong tâm thanh tịnh không có ư niệm. Ư niệm dấy
lên th́ làm sao? Trở về A Di Đà Phật, thảy đều
quy vào A Di Đà Phật. Tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới, A Di Đà Phật cũng không có, quư vị
sẽ minh tâm kiến tánh. Đây là dùng một niệm để
xóa trừ tất cả những niệm khác. Tịnh Tông
dùng phương pháp này, nên gọi là Niệm Phật. Dùng
phương pháp Niệm Phật để đạt đến
minh tâm kiến tánh, đạt tới đại triệt
đại ngộ.
Bất
luận pháp môn nào, Tịnh Tông chẳng phải là ngoại
lệ, mục tiêu cuối cùng là minh tâm kiến tánh, kiến
tánh thành Phật. V́ vậy, trong kinh Bát Nhă, đức Phật
đă dạy: “Pháp môn b́nh đẳng,
chẳng có cao thấp”, lời này là thật, chẳng giả.
Phương pháp khác nhau, nhưng phương hướng
như nhau, mục tiêu giống nhau. V́ thế, không có giới
th́ làm sao được? Quư vị chẳng thể chịu
khổ, sẽ chẳng thể tŕ giới. Quư vị chẳng
thể tŕ giới sẽ không thể đắc Định;
chẳng thể đắc Định, làm sao có thể khai
Huệ? Vậy th́ những điều quư vị mong cầu,
nghiên cứu sẽ là Phật học, là pháp thế gian,
chúng ta chớ nên không biết! Một bộ kinh A Di Đà
có thể giúp quư vị tới Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Trong thế gian này, quư vị thông minh, hiếu
học, nghiên cứu thấu suốt Tam Tạng mười
hai bộ kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật, học thuộc
nhuyễn nhừ, nhưng không có giới! Không có giới,
nói đến chữ này, quư vị phải hiểu: Quư vị
chẳng có Giới - Định - Huệ. V́ lẽ đó,
trước kia, thầy Lư thường nói: Trong lục
đạo luân hồi, quư vị đáng sanh tử ra sao th́
vẫn sanh tử như thế ấy, chẳng có một
tí xíu biện pháp nào! Chớ nên xem thường những ông
già, bà cả, chẳng thể khi dễ họ! Họ do một
bộ kinh Di Đà, một câu A Di Đà Phật, niệm vài
chục năm, khi lâm chung, đứng văng sanh, ngồi văng
sanh, biết trước lúc mất. Đó là ǵ? Giới -
Định - Huệ thành tựu, họ dùng được!
Họ tới Tây Phương Cực Lạc thế giới
làm Phật, c̣n quư vị vẫn luân hồi trong lục
đạo!
Câu
hỏi thứ ba, cũng là hỏi rất hay! Hiện thời,
hiện tượng này rất nhiều, trong đoàn thể,
kẻ chẳng tuân thủ quy củ của người xuất
gia th́ nên làm sao? Lúc đức Phật tại thế, đức
Phật có thể kiềm chế họ, đức Phật
có thể giáo huấn họ. Nay đức Phật đă
khuất, sau này, gặp những kẻ như vậy, ai sẽ
giáo huấn họ? Đức Phật dạy một
phương pháp rất hay, đừng quan tâm đến họ,
đó là Mặc Tẫn (Brahma-danda). Mặc Tẫn là không bận tâm đến
kẻ ấy, dùng phương pháp này. Khổng lăo phu tử
của Trung Quốc nói: “Kính nhi
viễn chi” (kính trọng nhưng giữ khoảng cách),
chẳng kết oán với người khác. Chúng tôi nghe thấy
[điều này trong] giáo huấn của thánh nhân, theo thầy
Lư mười năm, tôi thấy lăo nhân gia đă làm
được. Trong đoàn thể của cụ cũng có
những học tṛ chẳng nghe lời, bề ngoài tuân phục,
bên trong chống đối, cụ đối với kẻ
ấy như thế nào? Chúng tôi thấy thầy đúng là
kính nhi viễn chi, thấy kẻ ấy, thầy nhất
định rất tôn kính, lễ độ, luôn luôn rất
hoan hỷ. “Viễn” là ǵ? Viễn
là quư vị tùy tiện làm ǵ, tôi trọn chẳng can thiệp,
chẳng nghe, chẳng hỏi đến! Quư vị thích làm
ǵ th́ làm. Đúng rồi, chính xác! Lăo nhân gia nêu gương
cho chúng ta thấy. Trong xă hội hiện tại, điều
này vô cùng trọng yếu, phải biết kính nhi viễn
chi đối với kẻ bất thiện! Viễn chẳng
phải là cố ư giữ khoảng cách. Chẳng phải! Gặp
mặt vẫn rất thân thiết, nhưng hết sức
khách sáo, lễ tiết ǵ cũng chu đáo; nhưng quư vị
làm ǵ, tôi không can thiệp, tôi làm ǵ, quư vị cũng chẳng
dính líu tới. Đấy chẳng phải là đối xử
tốt đẹp ư? Mọi người đều vui
vẻ ư? Thích Ca Mâu Ni Phật đúng là có trí huệ, thật
sự có trí huệ. Nói đến ḥa hài th́ làm như vậy
mới thật sự đạt được ḥa hài. Phải
học chẳng phê b́nh kẻ khác, đừng nên can thiệp
vào chuyện của người khác, chính ḿnh nêu
gương tốt cho kẻ khác thấy, điều này rất
trọng yếu. Họ nh́n thấy, hiểu, có cảm nhận,
tốt lắm! Nh́n nhưng không hiểu, chẳng sao! Họ
nh́n lâu ngày sẽ hiểu. Một năm, hai năm mà nh́n
không hiểu th́ chắc họ nh́n thấy mười
năm, hai mươi năm sẽ hiểu, không nhất
định! V́ thế, thái độ nhu ḥa, chất trực
quan trọng lắm! “Oai nghi hữu
tắc” (oai nghi theo đúng khuôn khổ) là chính ḿnh phải
thực hiện Giới - Định - Huệ.
Câu hỏi thứ
tư là mọi người đều biết, trong
tương lai nhất định sẽ dùng văn tự
ghi chép những điều Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói,
đă dạy trong một đời để truyền cho
hậu thế. Vậy th́ đầu kinh văn, câu đầu
tiên phải viết như thế nào? Đức Thế Tôn
chỉ dạy, dùng “như thị
ngă văn”. Đấy là khi đức Phật diệt
độ, A Nan hướng về Thích Ca Mâu Ni Phật hỏi
bốn vấn đề. Đây là vấn đề thứ
tư trong bốn vấn đề. “Nhất thiết kinh thủ, đương trí
như thị ngă văn, Phật tại mỗ phương đẳng
lục sự” (Đầu hết
thảy các kinh, nên để “như thị ngă văn”, Phật
tại chốn mỗ, thời mỗ...”, [tức là] sáu thứ
thành tựu [vừa nói trên đây]). Tôi nghe như thế
này, đức Phật vào lúc nào, ở địa điểm
nào, cùng với người nào, tức là sáu sự đă nói
trong phần trước, tức sáu món thành
tựu.
“Như thị ngă văn”, chữ Ngă này chỉ A Nan. A
Tiếp
đó, c̣n có vấn đề: “Hoặc
nghi viết: Phật thành đạo nhập niên, A
- “Triển chuyển văn: Báo Ân
kinh ngôn, A Nan sở bất văn kinh, tùng chư tỳ-kheo
văn, hoặc chư thiên tử thuyết” (Triển chuyển văn: Kinh Báo Ân
nói những kinh nào A Nan không được nghe trước
đó th́ nghe từ các tỳ-kheo khác, hoặc nghe chư
thiên nói). Nghe từ đồng học,
từ những vị đồng học đă thân cận
[đức Thế Tôn] từ thuở đầu, những
vị đồng học ấy như ngài Kiều Trần
Như đă nói trong phần trước là vị chứng
A La Hán đầu tiên ở Lộc Dă Uyển, có thể nói
là hết thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói
trong bốn mươi chín năm, Ngài nghe toàn bộ, chẳng
sót buổi nào. Các Ngài có quan hệ thân thích với Thích Ca Mâu
Ni Phật và A
- Thứ hai là
“Phật trùng thuyết”,
trong kinh Báo Ân có chép: “A
- Thứ ba là “A Nan tự thông: Kim Cang Hoa Kinh
ngôn, A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự Tại tam-muội, sở
vị văn kinh, tự năng ức tŕ” (A Nan tự
thông hiểu: Kinh Kim Cang Hoa nói A Nan đắc Pháp Tánh Giác Tự
Tại tam-muội, những kinh chưa được nghe,
có thể tự ghi nhớ). Quư vị thấy: Khai ngộ
đấy! Quư vị thấy ở Trung Quốc, Thiền
Tông Lục Tổ Huệ Năng đại sư khai ngộ,
chẳng nghe người khác giảng kinh, chỉ có lúc tiếp
nhận y bát ở Hoàng Mai, ḥa thượng Ngũ Tổ Nhẫn
đêm khuya giảng đại ư kinh Kim Cang cho Ngài, chắc
chắn là không có kinh sách, chúng tôi dự đoán thời gian
tối đa là hai tiếng đồng hồ, giảng tới
câu: “Ưng vô sở trụ, nhi
sanh kỳ tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu để
sanh tâm), Ngài hoát nhiên đại ngộ, bèn thông suốt. Hết
thảy các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói, quư vị
đọc cho Ngài nghe, Ngài bèn có thể giảng cho quư vị
nghe. Quư vị là người đọc chẳng giác ngộ,
Ngài giảng cho quư vị nghe, rất có thể là quư vị
sẽ đại triệt đại ngộ. Tỳ-kheo-ni
Vô Tận Tạng chẳng phải là một thí dụ rất
rơ rệt đó ư? Vị này là người được
Huệ Năng đại sư độ đầu tiên,
đắc độ đầu tiên, Ngài gặp trên
đường lánh nạn. Tại thôn Tào Hầu gặp gỡ,
vị tỳ-kheo-ni này cả đời thọ tŕ kinh Đại
Niết Bàn. Kinh Đại Niết Bàn kích thước cũng
rất lớn, có hai bản dịch, một bản bốn
mươi quyển, bản dịch kia gồm ba
mươi sáu quyển, đều là phân lượng khá lớn.
Con người xưa kia tốt đẹp, thâm nhập một
môn! Như thiền sư Pháp Đạt học kinh Pháp Hoa
mười năm, thâm nhập một môn. Thâm nhập một
môn, Sư đắc tam-muội, tâm thanh tịnh, trong tâm chẳng
có ǵ khác, chỉ có một thứ này. V́ thế, Lục Tổ
bảo ni sư hăy niệm kinh. Sau khi niệm xong, Lục Tổ
vừa nghe một đoạn đă giảng ư nghĩa của
đoạn ấy cho ni sư nghe. Ni sư nghe xong: “Hay quá!”,
hết sức hoan hỷ, cầm quyển kinh hướng
về Huệ Năng đại sư thỉnh giáo. Huệ
Năng đại sư bảo: “Ta không biết chữ,
ngươi đừng đưa kinh cho ta”. Ni sư hỏi:
“Chẳng biết chữ th́ làm sao Ngài giảng hay như thế?”
Tổ dạy: “Chuyện ấy chẳng dính dáng ǵ đến
biết chữ hay không biết chữ”. Chúng ta có thể suy
ra: Huệ Năng đại sư có năng lực ấy
th́ A Nan cũng có năng lực ấy. Chỉ cần
chuyên, nay chúng ta nói là “chuyên chú”, c̣n Phật pháp gọi là
“chuyên nhất”. Khi đạt đến nhất tâm bất
loạn sẽ khai, tự được tâm khai, tự
nhiên thông suốt. Khi con người đă kiến tánh, thứ
ǵ cũng đều thông. A
Do A Nan kết tập Kinh Tạng, Ngài là
người lưu truyền Giáo Hạ của Phật, Ca
Diếp là người lưu truyền Tông Môn, truyền Thiền
Tông. V́ thế, [Phật giáo] được gọi là “Tông Môn Giáo Hạ”. Bản thân
Phật giáo xưng là Tông Giáo, khác với chữ “tôn giáo” hiện
thời, Tông là Tông Môn, Giáo là Giáo Hạ. Tại Trung Quốc
có mười tông, Thiền Tông xưng là Tông Môn, chín tôn phái
kia đều gọi là Giáo Hạ. Đây là phương thức
giáo học khác nhau. Tông Môn trước tiên bảo quư vị
tham cứu, không có sách giáo khoa. Ngộ rồi sẽ bắt
đầu tu, [tức là] sau khi đại triệt đại
ngộ, mới cho phép quư vị xem kinh. Trước khi khai
ngộ, chẳng được phép xem kinh. Đây là [pháp
môn dành cho] nhân vật thiên tài đặc biệt, chẳng
dành cho người tầm thường. V́ thế, lúc tôi vừa
tiếp xúc Phật pháp, ba vị thầy đều cảnh
cáo tôi. Ba vị thầy đều chưa gặp mặt
tôi, nhưng đă cảnh cáo tôi một chuyện, bảo
tôi ngàn vạn phần đừng mon men Thiền Tông. Đó
là [pháp môn dành cho] kẻ thượng thượng căn,
là nhân vật thiên tài trong Phật môn. Nếu anh muốn học
pháp môn ấy, đó là “một bước lên trời”. Nếu
một bước không lên trời được, rớt
xuống sẽ tan thân nát xương, xong luôn! V́ thế,
tiên sinh Phương Đông Mỹ dạy
tôi Pháp Tướng Duy Thức, Ngài chỉ điểm cho
tôi con đường ấy. Sau khi học Phật, tôi thân
cận Chương Gia đại sư, tôi theo
Phương tiên sinh đại khái nửa năm, theo
Chương Gia đại sư ba năm, Chương Gia
đại sư đặt vững cơ sở cho tôi.
Chương gia đại sư dạy tôi “thấy thấu
suốt, buông xuống”, đây là pháp môn tổng quát, tổng
nguyên tắc, tổng cương lănh, bất luận tu pháp
môn nào cũng đều phải thực hiện từ
nơi đây! Ngài dạy tôi học Thích Ca Mâu Ni Phật, tác
phẩm Ngài dạy tôi đọc đầu tiên là Thích Ca Phổ
và Thích Ca Phương Chí: “Anh nhận biết Thích Ca Mâu Ni Phật,
khéo học tập theo Ngài, sẽ chẳng đến nỗi
đi sai đường”. Chúng tôi mới liễu giải
sau khi khai ngộ vào năm ba mươi tuổi, Thích Ca Mâu
Ni Phật liền tiến hành dạy học, dạy suốt
bốn mươi chín năm. V́ thế, Phật pháp chẳng
phải là tôn giáo.
Hiện
thời, Phật giáo biến thành tôn giáo, đệ tử
Phật môn chúng ta có tội lỗi. Thầy chúng ta là một
đại giáo dục gia, là đại thánh đại hiền,
cớ sao lại khiến cho Ngài dính mắc vào tôn giáo, tôn
giáo là mê tín? Chúng ta hiểu rơ ràng, bất luận nơi nào,
chúng ta đều phải bảo cho mọi người biết:
“Phật pháp chẳng phải là tôn giáo”. Lời này chẳng
phải do tôi nói đầu tiên, mà do Âu Dương đại
sư (Âu Dương Cánh Vô) nói trước tiên. H́nh như
vào năm Dân Quốc 12 (1933), tôi c̣n chưa sanh ra. Ông ta ở
đại học Đệ Tứ Trung Sơn, nay là đại
học Sư Phạm Nam Kinh, đă có lần giảng diễn
rất nổi tiếng với đề mục “Phật pháp chẳng phải là
tôn giáo, chẳng phải là triết học, mà là nhu cầu
thiết yếu trong hiện thời”, giảng về
đề tài như thế. Phật giáo là ǵ? Phật giáo là
giáo dục của đức Phật, là giáo dục của
Thích Ca Mâu Ni Phật, rất rơ ràng. Chúng ta học Phật là
tiếp nhận sự giáo dục của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ngài giáo dục là dạy ǵ? Dùng một câu nói trong kinh điển
để nói th́ sẽ là “chư
pháp Thật Tướng”. Câu này giải thích ra sẽ là:
Thật Tướng của nhân sinh và vũ trụ, Ngài dạy
chúng ta điều này. Nói cụ thể cùng quư vị, nói
theo cách người hiện thời, nội dung lời Ngài
nói là ǵ? Nói cụ thể sẽ không ngoài năm hạng mục
lớn. Năm hạng mục ấy là luân lư, đạo
đức, nhân quả, triết học, và khoa học.
Năm hạng mục đều giảng đến mức
viên măn rốt ráo, quá sức quư báu! Người đời
sau gọi giáo học của lăo nhân gia và các sách vở, tức
là những tài liệu dạy học thuở ấy là Pháp Bảo,
có lư lắm! V́ thế, bản thân chúng ta phải khéo học,
phải nghiêm túc học, phải uốn nắn những ngộ
nhận của xă hội, đó là trách nhiệm và sứ mạng
của chúng ta. Thầy Phương cả đời nỗ
lực làm chuyện này, rất đáng tiếc là cụ mất
quá sớm, bảy mươi chín tuổi đă ra đi. Khi
ấy tôi nghĩ, nếu thầy sống thêm năm năm
nữa, hiệu quả sẽ vô cùng rơ rệt, có thể khiến
cho đại chúng trong xă hội suy nghĩ lại, xác định
đúng vị trí của Phật pháp. Phật pháp thật sự
chẳng phải là tôn giáo.
Tiếp
đó, cụ Hoàng lại giải thích cặn kẽ chữ
“như thị”, “như thị” là
Tín Thành Tựu. “Cư lục
chủng thành tựu trung chi thủ vị” (đứng
đầu trong sáu món thành tựu), [đây là] điều
đầu tiên phải tin tưởng. Quư vị tiếp nhận
giáo dục, chẳng có ḷng tin đối với thầy, chẳng
có ḷng tin đối với môn quư vị đang học, sẽ
chẳng thể nào học thành công được! V́ thế,
đầu tiên, phải tin tưởng thầy, thứ hai
là tin tưởng vào môn học th́ quư vị mới thật
sự học được điều ǵ đó. Nếu
tâm quư vị chẳng mười phần cung kính thầy, sẽ
chẳng đạt được mười phần lợi
ích. Trong Văn Sao, Ấn Quang đại sư đă giảng
rất nhiều lần: “Một
phần thành kính được một phần lợi ích,
hai phần thành kính được hai phần lợi ích,
mười phần thành kính được mười phần
lợi ích”. Thành kính đối với ai? Thành kính đối
với thầy, tin tưởng môn học, có ḷng thành tín,
quư vị mới thật sự học được. Cùng
một môn học, cùng một vị thầy, v́ sao hiệu
quả học tập của mỗi tṛ khác nhau? Chẳng có
chi khác, do ḷng tin khác nhau! Đạo lư ở chỗ ấy!
Thầy xét coi học tṛ nào có thể dạy được,
học tṛ nào chẳng có cách dạy! V́ sao thầy biết?
Thầy chẳng có thần thông, thầy chỉ coi tṛ có tâm
tôn kính hay không? Thầy cũng trọn chẳng đ̣i hỏi
quư vị tôn kính thầy như thế nào, chẳng phải
vậy, mà là thầy xem quư vị có thể tiếp nhận
được bao nhiêu?
Do
tôi được cha dạy tôn sư trọng đạo từ
nhỏ; thuở ấy, khoảng chừng năm Dân Quốc
hai mươi mấy, tôi nhớ h́nh như tôi năm, sáu tuổi,
hoặc sáu bảy tuổi, vào trường tư thục,
nay gọi là trường học dành cho con em trong gia
đ́nh, [thầy dạy] là họ hàng, ở trong nhà cô tôi,
thuở ấy là đại gia tộc. Do tôi vẫn c̣n tiếp
xúc với đại gia đ́nh, nên có ấn tượng.
Thôn trang ấy có phạm vi rất lớn. Ước chừng
tới hai trăm người, là một gia tộc, chẳng
tách ra thành từng nhà riêng biệt, mười người
anh em [của cha tôi] chẳng tách riêng. V́ vậy, cả nhà từ
trên xuống dưới có khoảng chừng hai trăm
người, là gia tộc rất lớn. Họ có một từ
đường. Từ đường trừ Xuân Thu tế
lễ ra, chẳng dùng để làm ǵ. V́ thế, trường
tư thục mở ngay trong từ đường. Tư
thục là trường học cho con em trong gia tộc, trẻ
nhỏ trong gia tộc đều đến học tại
đó. Tôi nhớ các bạn học dường như không
nhiều lắm, phải là từ ba mươi đến
năm mươi người, không nhiều lắm! Lớn
tuổi th́ đại khái có mười bảy, mười
tám, nhỏ tuổi th́ giống như chúng tôi, rất bé,
sáu, bảy tuổi. Cùng dạy trong một pḥng học, một
vị thầy. Ngày nhập học, cha dẫn tôi đi, mang
theo lễ vật, biếu “thúc
tu”[10] cho thầy, cho nên mang theo lễ
vật dâng lên thầy. Vào trường học, tức là
đại điện (gian chính của từ đường),
đại điện là nơi tế tổ được
đổi thành lễ đường. Chính giữa điện,
đặt một bài vị, chữ trên bài vị tôi đều
đọc được, v́ khi đó, cha đă dạy cho
tôi biết mặt chữ tại nhà, đại khái có thể
nhận biết tới năm trăm chữ. V́ thế, mấy
chữ trên bài vị tôi đều đọc được:
“Đại Thành Chí Thánh Tiên
Sư Khổng Phu Tử Thần Vị”, tôi nhận biết
bài vị ấy, bài vị rất lớn. Thầy ngồi
bên cạnh, hai bên là học tṛ, bạn học đứng
hai bên. Cha tôi dẫn tôi, cha ở trước, tôi ở
đằng sau, hướng về Khổng lăo phu tử
hành lễ tối kính, tức là ba lần lạy, chín lần
dập đầu. Sau khi lạy xong, cha tôi mời thầy
ngồi trên ghế, thầy ngồi phía dưới bài vị
Khổng Tử, [cha con cùng] hướng về thầy ba lần
quỳ, chín lần dập đầu, chúng tôi biết tôn
sư trọng đạo từ chỗ này. Quư vị thấy
cha tôi đối đăi thầy, ba lần quỳ, chín lần
dập đầu [trịnh trọng như thế], chúng
tôi c̣n dám nói ǵ nữa hay không? Thầy và bậc trưởng
thượng trong nhà biểu diễn cho quư vị xem, dạy
quư vị biết tôn sư trọng đạo như thế
nào. Tôi học từ chỗ ấy, nên cả đời
luôn rất tôn kính thầy.
Sau
này, quư vị thấy tôi học Phật tại Đài Loan,
tôi chiếm được một chút tiện nghi đối
với ba vị thầy. Tôi chẳng có mảy may quan hệ
ǵ với thầy, nhưng sau khi thân cận thầy, thầy
đặc biệt quan tâm, đặc biệt chăm chút
tôi. Tôi thân cận thầy Phương, chỉ cầu thầy
đồng ư cho tôi đến dự thính tại trường
th́ duyên ấy đă vô cùng hy hữu. Nào ngờ thầy cho
phép tôi mỗi tuần đến nhà thầy, dạy tôi hai
tiếng, chỉ có ḿnh tôi là học tṛ. Thuở ấy, tôi
được sủng ái mà đâm ra sợ, cảm kích
năm vóc sát đất. Lúc đó, đời sống tôi rất
nghèo khó, một đồng biếu thầy cũng không có,
thầy t́nh nguyện dạy miễn phí cho tôi. Do nguyên nhân
nào? Mười mấy năm sau, chúng tôi mới nghĩ ra,
đối với thầy, tâm tôi có một phần cung kính.
Tôi và thầy chẳng quen biết, tôi viết một lá
thư gởi đến Ngài, thư viết bằng bút
lông, dùng lối chữ Công Khải[11], đúng quy củ viết một
bức thư, gởi một bài văn cho thầy xem, bài
văn ấy viết bằng lối chữ Tiểu Khải[12], hết sức cung kính. Đại
khái là trong trường học, người có tâm cung kính
đối với thầy như thế rất ít. V́ thế,
lần đầu tiên gặp mặt, thầy gọi tôi
đến nói chuyện, hiểu rơ t́nh h́nh cuộc sống
của tôi, hiểu rơ chí thú của tôi: Tôi ưa thích triết
học, nhưng chưa hề học qua, chưa hề thân
cận một vị thầy triết học nào, cũng
chưa từng đọc những sách triết học nào,
là một tờ giấy trắng. Đó là ǵ? Thầy thích
nhất, chưa từng bị ô nhiễm. V́ thế, thầy
chẳng cho tôi đến trường nghe kinh, sợ bị
ô nhiễm. Đến trường nghe kinh, nhất định
quen biết rất nhiều thầy và bạn học, sẽ
bị ô nhiễm, thầy ngăn ngừa ô nhiễm! Đấy
là sư thừa Trung Quốc thời cổ, nghe lời dạy
của một vị thầy mà thôi! Một vị thầy
chỉ dạy quư vị, quư vị sẽ đi theo một
con đường, có thể đạt thành tựu. Hai vị
thầy là hai loại tư tưởng, hai phương
hướng, có hai con đường! Ba vị thầy là
ngă ba đường, bốn vị thầy là ngă tư,
xong luôn! V́ thế, trường học hiện thời phiền
phức lắm. Quư vị thấy mỗi ngày có bao nhiêu lớp,
mấy vị thầy dạy quư vị, dạy đến
nỗi quư vị hồ đồ! Nguyên nhân v́ sao giáo sư
David McMullen từ
Tiếp
đó, sách viết: “Trí Độ
Luận viết: Phật pháp đại hải, tín vi
năng nhập” (Trí Độ Luận nói: “Biển cả
Phật pháp, do ḷng tin có thể vào”). Phật pháp quả thật
là đại hải, “hải”
là Tánh hải. Giáo học Phật pháp nhằm trở về
tự tánh, trở về tự tánh, quư vị sẽ đắc
đại viên măn. Không có cách nào h́nh dung sự đại
viên măn này. Nói đơn giản là như trong kinh Hoa Nghiêm,
đức Phật đă nói trí huệ viên măn, đức
năng viên măn, tướng hảo viên măn, không có ǵ chẳng
viên măn. Sự viên măn ấy chẳng do quư vị học
được, mà vốn sẵn có trong tự tánh, chỉ
cần kiến tánh sẽ thảy đều chứng đắc.
Do vậy, người kiến tánh được gọi
là Phật. Phật Phật đạo đồng, Phật
Phật trí huệ giống nhau, đức năng giống
nhau, tướng hảo giống nhau, không có ǵ khác nhau. Tuyệt
đối chẳng thể nói vị Phật này biết nhiều
hơn vị Phật kia một chút, không hề có, [các vị
Phật đều] viên măn. Chứng đắc của hết
thảy chư Phật chẳng tăng, chẳng giảm.
Thật ra, hết thảy chúng sanh chúng ta và Phật chẳng
khác ǵ nhau, chỉ là mê mất tự tánh mà thôi. Ngày nào chúng
ta buông mê hoặc, điên đảo xuống, quư vị sẽ
thành Phật. Quư vị và chư Phật Như Lai chẳng
sai biệt, pháp thế gian thông suốt toàn bộ, pháp xuất
thế gian cũng thông suốt. V́ sao? Hết thảy các
pháp chẳng ĺa tự tánh, hết thảy các pháp đều
là do tự tánh sanh và hiện, ngay cả những ǵ do A Lại
Da biến ra, hết thảy đều hiểu rơ. Làm thế
nào để có thể cầu được? “Quư dĩ chuyên”, hễ chuyên
bèn có thể cầu được, c̣n tạp sẽ chẳng
có cách nào! Phải buông khởi tâm động niệm, phân
biệt, chấp trước xuống. Trong kinh Đại
Thừa thường nói điều này, quư vị thấy:
Buông chấp trước xuống, quư vị sẽ chứng
quả A La Hán, thành Chánh Giác. Nếu buông phân biệt xuống,
quư vị sẽ là Bồ Tát, thành Chánh Đẳng Chánh Giác.
Nếu chẳng khởi tâm bất động niệm, quư
vị sẽ chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, là Phật. Minh tâm kiến tánh, đúng như Huệ
Năng đại sư đă nói, chẳng dính dáng ǵ đến
biết chữ hay không biết chữ, học hay chẳng
học, mà liên quan đến buông xuống hay không! Dẫu
quư vị học cho nhiều, nhưng không buông xuống
được, quư vị sẽ là học giả trong thế
gian, chẳng thể nào sánh bằng bậc Tu Đà Hoàn trong
Phật giáo, mà cũng chẳng được thụ dụng
như bậc Tu Đà Hoàn. Tu Đà Hoàn có trí huệ, quư vị
có tri thức, nhưng không có trí huệ. Nhất định
phải hiểu rơ ràng điều này.
“Hựu Hoa Nghiêm Kinh thuyết, tín
vi thủ. Như nhân hữu thủ, chí trân bảo xứ,
tùy ư thái thủ. Nhược nhân vô thủ, không vô sở hoạch.
Khả kiến, tín giả năi nhập pháp chi sơ môn, xả
thử mạc do” (Kinh Hoa
Nghiêm lại dạy: “Tín làm tay, như người có tay
đến chốn trân bảo, tùy ư nhặt lấy. Người
nếu không tay, không
được thứ ǵ”. Rơ ràng, Tín là cửa đầu
tiên để nhập pháp, bỏ Tín th́ không cách nào nhập
được). Tín rất trọng yếu!
V́ thế, đại kinh, đại luận, đại
kinh là Hoa Nghiêm, đại luận là Đại Trí Độ
Luận, đều nói: “Tín vi
đạo nguyên, công đức mẫu” (Tín là nguồn
đạo, mẹ công đức), ư nói: Cội nguồn của
đạo là Tín, hết thảy các công đức đều
là sanh từ tín tâm. Không tin, quư vị chẳng có công đức,
có thể tu phước đức, nhưng chẳng có cách
nào tu công đức. Công đức nhất định phải
phát xuất từ tín tâm, chúng ta chớ nên không biết
điều này. Chúng ta học Phật, có đạt thành tựu
trong Phật pháp hay không? Nói thật ra, quư vị hăy chú tâm
quan sát, quư vị có tin Phật hay không? Có tin pháp hay không? Có
tin thiện tri thức hay không? Nếu đối với ba
điều ấy mà ḷng tin chẳng đủ, trong Phật
môn, quư vị chỉ có thể tu được phước
báo, phước đức, chẳng có công đức;
nhưng phước đức chẳng thể giải quyết
vấn đề! Phước đức có thể giải
quyết cuộc sống trước mắt: Có phước
báo, có thể đạt được tiếng tăm, lợi
dưỡng, nhưng chẳng có mảy may dính dáng đến
liễu sanh tử, thoát luân hồi, văng sanh thành Phật. Phải
biết điều này! Nhưng chuyện này đối với
những người truy cầu tri thức mà nói th́ cũng
là chuyện rất b́nh thường, họ nói sao? Đó là
mê tín, chẳng hợp khoa học, họ chịu thua thiệt
rất lớn. May sao, trong hiện tại, Lượng Tử
Lực Học xuất hiện, đây là ngành khoa học mới
xuất hiện, tôi tin trong năm năm nữa, nó sẽ
phổ biến. Từ những phát hiện của Lượng
Tử Lực Học, những nguyên lư và nguyên tắc do
đức Phật đă giảng đều được
chứng thực. Trước hết, họ chứng minh một
chuyện: Vũ trụ xuất hiện trong sát-na, từ
Không mà sanh Có. Cách nói này hết sức gần với Phật
pháp. Trên thực tế, chẳng phải là từ Không sanh
ra Có, mà là một niệm bất giác, tự tánh biến hiện
một A Lại Da. A Lại Da là Tạo Vật Chủ (Tạo
Hóa), từ A Lại Da xuất hiện vũ trụ vạn
vật, sanh mạng, kể cả bản thân chúng ta. Điều
này rất gần gũi. V́ thế, những điều này
có lợi. Có thể thấy: Tín là sơ môn để nhập
pháp, bỏ ĺa ḷng tin sẽ không có cách nào [nhập đạo].
“Hựu vi nhiếp pháp chi thượng
thủ, cố vân: Tài nhập tín môn, tiện đăng tổ
vị” (Tín lại là điều
quan trọng nhất để gồm thâu các pháp (lănh hội
các pháp), nên có câu: “Vừa vào cửa Tín, liền lên địa
vị Tổ”). Đây là nói đến Chân Tín. V́ sao Huệ Năng đại sư nghe Ngũ
Tổ nói mấy câu bèn khai ngộ? Chẳng có ǵ khác, ḷng
thành tín đă đạt tới viên măn, cho nên vừa
được chỉ điểm bèn thông suốt. V́ sao nay
chúng ta chẳng thể? Trong tín tâm của chúng ta xen tạp
hoài nghi, chẳng phải hoàn toàn là thành tín, mức độ
tin tưởng chẳng đủ! Trong đây có đại
học vấn! Tín tâm viên măn dẫn đến thành tựu
viên măn. Tín tâm cũng chẳng dễ dàng sanh khởi! Đặc
biệt là đối với khoa học hiện thời.
Các nhà khoa học theo đuổi hoài nghi, hoàn toàn trái nghịch
với đường lối nhập đạo của
nhà Phật. Trong Phật pháp, mảy may hoài nghi cũng chẳng
thể có. Quư vị có một phần hoài nghi, sẽ có một
phần chướng ngại. Có mười phần hoài
nghi, sẽ có mười phần chướng ngại.
Chúng ta chia tín tâm thành một trăm phần, tín tâm viên măn một
trăm phần, sẽ lập tức có thể thành Phật,
ở đây nói là: “Tài nhập
Tín môn, tiện đăng tổ vị”, Huệ Năng
đại sư là một ví dụ! Tín tâm một trăm phần,
có mười phần tin tưởng là đă khá lắm, cũng
rất khó có! Tôi theo mấy vị thầy, tôi nghĩ khi ấy
thầy thấy tôi tín tâm bất quá được mười
phần mà thôi, một trăm phần chỉ được
mười phần. Nếu tôi là một trăm phần
trăm, tôi sẽ giống như Huệ Năng đại
sư, thành Phật, thật sự chẳng sai tí nào! Chúng ta
phải nâng cao bản thân như thế nào, phải làm cho
ḷng tin sâu đậm hơn như thế nào? Tín tâm liên quan
đến đọc tụng Đại Thừa. Nay quư vị
nghe một bộ kinh này, có thể thật sự nghe bộ
kinh này đến ba ngàn lượt, tín tâm của quư vị
tối thiểu có thể đạt tới hai ba chục
phần trăm, sẽ có năng lực lănh ngộ kha khá,
Giới - Định - Huệ sẽ dần dần h́nh
thành. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học
tới đây.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
Phần 41 hết
[1] Biện Chứng Pháp: Cách lư luận nhằm
giải quyết những quan điểm khác nhau về cùng
một vấn đề, áp dụng những lư luận, giải
thích hợp lư.
[2] Đường Quân Nghị (1909-1978),
người huyện Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên, là một
nhà tư tưởng, triết học kiêm giáo dục nổi
tiếng của Trung Hoa hiện đại, cụ
được coi là truyền nhân của tiên sinh
Phương Đông Mỹ. Năm 1949, cụ cùng Tiền Mục,
Trương Phi Giới v.v... sáng lập Á Châu Văn
Thương Học Viện (nay là Hương Cảng Trung
Văn Đại Học Viện), từng sang Mỹ dạy
học theo lời mời của Quốc Hội Mỹ, dạy
học tại nhiều đại học ở Đài Loan,
Hương Cảng. Trước tác rất phong phú về
nhiều đề tài, nổi tiếng nhất là các tác phẩm
Trung Tây Triết Học Tư Tưởng Chi Tỷ Giảo
Nghiên Cứu Tập, Trung Quốc Triết Học Nguyên Luận,
Triết Học Khái Luận, Nguyên Giáo Thiên v.v...
[3] Lănh
[4] Đăng Địa Bồ Tát: Bồ
Tát chứng đắc từ Sơ Địa trở lên.
[5] Năm thế hệ cùng sống chung một
nhà.
[6] Gia Tường Cát Tạng (549-623) là cao
tăng đời Tùy. Ngài quê ở Kim Lăng, họ An, tên
Thế, tổ tiên vốn là người An Tức, về
sau di cư đến Kim Lăng, nên đôi khi người
ta c̣n gọi Ngài là Hồ Cát Tạng. Năm lên bốn tuổi,
Sư theo cha yết kiến ngài Chân Đế, được
ban pháp danh là Cát Tạng. Sau đấy, cha Ngài xuất gia hiệu
là Đạo Lượng. Sư thường theo cha đến
chùa Hưng Hoàng nghe ngài Pháp Tuyên giảng Tam Luận, năm
lên bảy tuổi bèn xin xuống tóc với ngài Pháp Lăng. Do
ngài Pháp Lăng chuyên nghiên cứu Tam Luận giáo học, nên
Sư chuyên học Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị
Môn Luận. Năm mười chín tuổi, Sư lên giảng
kinh khiến cho thính chúng kinh ngạc trước biện
tài. Năm Sư ba mươi hai tuổi, ngài Pháp Lăng thị
tịch, nên Sư lui về chùa Gia Tường ở Cối
Kê, chuyên tâm giảng thuyết, viết sách, người hỏi
đạo cả ngàn người, pháp duyên rất thịnh.
Do cách sách chú giải về Tam Luận của Sư
được các tăng chúng hân thưởng, nên mọi
người chỉ gọi Sư bằng
danh hiệu Gia Tường đại sư, chứ không gọi
tên húy. Sư cũng từng viết thư thỉnh ngài Trí
Khải (Trí Giả đại sư) giảng Pháp Hoa. Sư
từng tự chép hai ngàn bộ kinh Pháp Hoa, tạo hai
mươi lăm pho tượng Phật, cạn hết
ḷng thành lễ sám. Năm Vũ Đức nguyên niên (618)
đời Đường Cao Tổ, triều đ́nh tuyển
chọn mười vị cao tăng để thống
lănh tăng chúng, Ngài cũng được cung thỉnh vào
đó. Tháng Năm năm Vũ Đức thứ sáu
(623), Sư tắm gội, thay áo mới, thắp
hương, niệm Phật, viết xong tác phẩm Tử
Bất Bộ Luận, rồi an tường viên tịch.
B́nh sinh, Sư giảng Tam Luận hơn một trăm lần,
kinh Pháp Hoa ba trăm lần, giảng các kinh Đại Phẩm,
Hoa Nghiêm, Duy Ma, và Đại Trí Độ Luận hơn
mười lần. Trước tác phong phú, nổi tiếng
nhất là các bộ Trung Quán Luận Sớ, Thập Nhị
Môn Luận Sớ, Bách Luận Sớ, Tam Luận Huyền
Nghĩa, Đại Thừa Huyền Luận, Pháp Hoa Huyền
Luận, Pháp Hoa Nghĩa Sớ v.v.. Hầu như các kinh
Đại Thừa quan trọng như Pháp Hoa, Niết Bàn,
Thắng Man, Đại Phẩm, Kim Quang Minh, Duy Ma, Nhân
Vương, Vô Lượng Thọ v.v... Ngài đều viết
chú sớ.
[7] Pháp Hoa Luận chính là bộ Pháp Hoa Luận
Sớ của ngài Gia Tường Cát Tạng, gồm ba quyển.
[8] Thành phố Tây An (tỉnh
Thiểm Tây) chính là tên gọi hiện thời của
Trường An. Thành phố này c̣n được gọi là
Kiểu, Kiểu Kinh, Tông Châu, Nội Sử, Đại An,
Hàm Dương, Thường An, Đại Hưng, Phụng
Nguyên, Kinh Triệu, Phụng Thành, Đẩu Thành, Tây Kinh, hoặc
chỉ gọi đơn giản là An, nằm ở trung tâm
vùng Quan Trung, đă có lịch sử hơn sáu ngàn năm, vốn
có tên là Phong Kiểu từ thời Tây Châu. Nơi này từng
là kinh đô của các triều đại Châu, Tần, Hán,
Tấn, Tiền Triệu, Tiền Tần, Hậu Tần,
Tây Ngụy, Bắc Châu, Tùy và Đường. Cái tên Tây An
phát xuất từ tên gọi Tây An Phủ được
đặt ra dưới triều Nguyên.
[9] Thành ngữ này dựa theo hai câu trong Nho
Lâm Ngoại Sử: “Thập
niên hàn song khổ độc thư, nhất cử thành danh
thiên hạ tri” (mười năm song lạnh chăm
đọc sánh, thi đậu thành danh thiên hạ quen). Theo
sách đó, hai câu thơ ấy lại dựa theo ư bài thơ
Trúc Ổ Thính Cầm của Thạch Tử Chương
đời Nguyên: “Thập niên
hàn song tích tuyết dư, độc đắc nhân gian vạn
quyển thư” (Mười năm song lạnh tuyết
phủ đầy, đọc khắp nhân gian muôn quyển
sách). Do vậy, “thập niên hàn
song” chỉ quá tŕnh học tập khổ luyện, không
sao nhăng. Cũng có thuyết giải thích câu trong Nho Lâm Ngoại
Sử lại xuất phát từ hai câu thơ trong bài Tỳ
Bà Kư của Cao Minh đời Nguyên: “Thập niên hàn song vô nhân vấn, nhất cử thành
danh thiên hạ tri” (Mười năm song lạnh không ai
hỏi, thi đậu thành danh cả nước quen). Dù xuất
phát từ đâu, từ ngữ “thập
niên hàn song” đều có nghĩa là gắng công chuyên chú học
tập, không sao nhăng!
[10] Thúc tu (束脩) theo
nghĩa gốc là mười miếng thịt khô bó lại,
là một lễ vật thông dụng thời cổ.
Chương Thuật Nhi trong sách Luận Ngữ có ghi: “Tử viết: Tự hành thúc tu
dĩ thượng, ngô vị thường vô hối” (Khổng
Tử nói: Từ lúc tiếp nhận thịt khô làm lễ vật
đến giờ, ta chưa bao giờ hối
hận). Ư nói: Từ khi khởi sự dạy học đến
nay, ta chưa bao giờ hối hận. Về sau, chữ “thúc tu” dùng theo nghĩa rộng
để chỉ lễ vật hay một món tiền do phụ
huynh biếu cho thầy dạy, xin cho con nhập học. Chữ
này c̣n được mở rộng ra để chỉ lương
bổng của thầy giáo, hoặc thời điểm bắt
đầu làm quan như truyện Diên Đốc trong Hậu
Hán Thư có câu: “Thả ngô tự
thúc tu dĩ lai, vi nhân thần bất hăm ư bất trung,
vi nhân tử bất hăm ư bất hiếu” (từ khi
ta làm quan đến giờ, làm bề tôi người khác chẳng
đến nỗi bất trung, làm con người khác chẳng
đến nỗi bất hiếu). Thậm chí mở rộng
ra thành sự ước thúc, tu dưỡng chính ḿnh, giữ
trọn ḷng nghiêm túc, cung kính.
[11] Công Khải tức là loại chữ Khải
(một trong bốn cách viết chữ Hán), chữ viết
đầy đủ nét, rơ ràng, ngay ngắn, không viết tắt,
dễ đọc, nên c̣n gọi là Chân Thư, Chánh Thư. Khải
có nghĩa là khuôn mẫu, mực thước.
[12] Tiểu Khải tức là lối chữ
Khải viết chữ nhỏ. Thể loại này do Chung
Diêu sáng chế vào đời Ngụy (thời Tam Quốc).
Lối viết này thường được sử dụng
thể hiện sự trang trọng, mực thước, không quá nhỏ, không quá lớn, gây cảm
giác hài ḥa, đẹp đẽ. Thường được
mô tả là “nét chữ trông
như chim hồng bay
lượn trên mặt biển”. Khoảng cách giữa
các ḍng chữ phải cân đối, nét bút chặt chẽ,
bay bướm, nhưng mực thước. Cỡ chữ
phải đều nhau, rất khó viết,
nên mỗi khi tỏ ư tôn kính ai, thường viết bằng
chữ Tiểu Khải. Thuở ấy, người ta
đă bắt đầu viết chữ Hán bằng bút ch́,
bút máy, hoặc bút nguyên tử (bút Bic), hầu như không ai
sử dụng bút lông để viết nữa, nên lăo pháp
sư trịnh trọng dùng bút lông, viết thư theo lối
chữ cổ để tỏ ḷng cung kính, chân thành.